Từ khi còn ít tuổi, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã đau xót trước cảnh đồng bào sống dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân và phong kiến. Trước hoàn cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, đói rét, với khát vọng giải phóng dân tộc, ngày 05/6/1911, Người đã rời Bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn – Gia Định sang phương Tây để học tập kinh nghiệm cách mạng để “về giúp đồng bào”.
Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920
Suốt nhiều năm bôn ba, Người đã đặt chân đến nhiều nước, tiếp xúc với nhiều lớp người, thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Hướng đi của Người trước hết là sang Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân. Cuộc tìm kiếm lịch sử và cuộc hành trình ra thế giới đã mở rộng nhận thức của Người về vấn đề dân tộc và con người. Người đã thấy không chỉ dân tộc mình mất tự do mà nhiều dân tộc khác cũng “cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của của chế độ thực dân”(1) và không chỉ đồng bào mình bị đối xử như nô lệ mà nhân dân lao động các nước khác không kể chủng tộc, màu da hay quốc tịch cũng “đều là nạn nhân của một kẻ sát nhân: chủ nghĩa tư bản đế quốc”(2), Người nhận xét: “Vậy là dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột, mà cũng chỉ có mỗi một tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”(3). Có thể nói, nhận thức đó đã bổ sung thêm tiêu chuẩn cho Người trong sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, con đường đó phải giải quyết vấn đề dân tộc và con người không chỉ cho dân tộc và con người Việt Nam mà cho tất cả các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động bóc lột trên toàn thế giới.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, đây là sự kiện rung chuyển thế giới, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử loại người. Cuộc cách mạng này đưa học thuyết của C.Mác từ sách vở trở thành hiện thực đầu tiên, đưa cách mạng thế giới bước sang thời đại mới, thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội. Cùng thời điểm đó, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Với hành trang chủ nghĩa yêu nước – nhân văn truyền thống và với những nhận thức mới về dân tộc và con người, đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6/1919, các nước thắng trận họp Hội nghị hòa bình ở Vécxây (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây bản yêu sách của những người An Nam, bản yêu sách gồm 8 điểm, đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, đây là lần đầu tiên những quyền lợi cơ bản, chính đáng, thiết thực của nhân dân Việt Nam được nêu ra trong diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên, bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ ““chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn”. Từ thực tiễn đó, Người càng khẳng định ý tưởng phải giải quyết vấn đề dân tộc và con người theo một học thuyết khoa học – cách mạng khác học thuyết tư sản và bằng một con đường cách mạng triệt để. Trong quá trình hoạt động, tư tưởng và lý luận của Người đã hướng đến sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Mác Lênin.
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp được tổ chức ở
thành phố Tua (nước Pháp), tháng 12/1920.
Tháng 7/1920, tại thủ đô Pa-ri nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã được đọc bản “Sơ thảo luần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanite (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17/7/1920, Người đã đọc đi đọc lại nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của thực dân sau gần mười năm tìm kiếm. Để nói lên niềm vui và hạnh phúc của Bác khi bắt gặp Luận cương của Lênin, trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” nhà thơ Chế Lan Viên đã viết “…Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc: Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”. Bằng trí tuệ thiên tài và quá trình hoạt động cách mạng của Người, vượt qua sự hạn chế trong chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin và đi vào con đường cách mạng vô sản. Người xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12/1920), tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập). Đây là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Từ một người yêu nước chân chính, Người đã trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, những năm hoạt động trong phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm của Đảng Cộng sản, kinh nghiệm của Liên Xô - quê hương Cách mạng tháng Mười, Người đã tích lũy được những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, và hình thành dần dần đường lối cứu nước. Người đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Công lao vĩ đại đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin”. Được chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, Nguyễn Ái Quốc “vụt lớn lên, ngang tầm sứ mệnh của con người làm ra lịch sử”(4).
Nguyễn Ái Quốc và Báo Le Paria (Người cùng khổ). Trong những năm hoạt động ở nước ngoài, tâm hồn và nghị lực của Nguyễn Ái Quốc luôn hướng về Tổ quốc Việt Nam, luôn ở bên cạnh đồng bào. Tên đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tờ báo “Người cùng khổ” và cuốn sách “Bản án chế độ thực dân Pháp” nhắc lại thời kỳ hoạt động cách mạng rất có ý nghĩa của Người. Người tranh thủ mọi cơ hội và vận dụng mọi khả năng, mọi hình thức để dìu dắt phong trào cách mạng trong nước, để động viên và cổ vũ các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và thanh niên, đứng lên đấu tranh; mặt khác Người tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị các tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin đến với nhân dân Việt Nam như đến với “người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”, chủ nghĩa Mác - Lênin lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi vào con đường cách mạng vô sản và làm dấy lên khắp trong nước một làn sóng dân tộc và dân chủ mạnh mẽ, trong đó giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng mang tính thời đại của Nguyễn Ái Quốc, với phong trào đấu tranh quyết liệt của giai cấp công nhân liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân, cùng với phong trào yêu nước của một dân tộc đang sục sôi cách mạng đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ký họa Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 2-1930.(Nguồn ảnh: baoapbac.vn)
Mùa Xuân năm 1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, ngày 03/02/1930 Người đã chủ trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Đông dương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Người trực tiếp soạn thảo như: Chánh cương vắn tắt; Sách lược vắn tắt; Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đây là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Đó là “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đường lối ấy gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính, gắn cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng vô sản. Đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước của Việt Nam đã được Người vạch ra, sự đúng đắn ngay từ đầu của Nguyễn Ái Quốc đã được quá trình cách mạng khảo nghiệm và khẳng định. Từ đó, cách mạng Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3.2.1930 phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đòi hỏi của công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, thông qua vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - người đã tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước, chuẩn bị tích cực các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng, đồng thời chủ trì việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi của lịch sử, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước kéo dài suốt nửa cuối thế kỷ XIX đến ba thập niên đầu thế kỷ XX. Cách mạng Việt Nam từ đây có cương lĩnh đúng đắn với việc xác định mục tiêu chiến lược, lực lượng và phương pháp cách mạng rõ ràng; có đội tiền phong lãnh đạo mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân và tiêu biểu cho phong trào dân tộc, quyết tâm lãnh đạo toàn dân giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc để tiến tới xã hội cộng sản.
Tượng đài Bác Hồ tại trung tâm huyện Mèo Vạc.
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, chuyển sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước đế quốc bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ…, biến những nước ở các châu lục này thành nước thuộc địa, phụ thuộc. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống của nhân dân lao động trên thế giới nói chung, ở các nước thuộc địa nói riêng trở lên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân ngày càng gay gắt.
Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ giải phóng dân tộc là yêu cầu căn bản, là nguyện vọng thiết tha của các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam. Những cuộc đấu tranh của các sĩ phu yêu nước như: Phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đều diễn ra sôi nổi, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, nhưng cuối cùng đều bị thất bại, bế tắc, đất nước ta vẫn ở trong tình trạng khủng hoảng đường lối chính trị. Nguyễn Tất Thành (lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc) rất khâm phục những nhà yêu nước lớn, những nhà cách mạng mạng thế hệ trước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…, nhưng không tán thành đường lối cứu nước của họ. Khi nhiều người ngoảnh nhìn sang phương Đông với sự ngưỡng mộ “người anh cả da vàng” Nhật Bản, hay Tôn Dật Tiên với chủ nghĩa Tam Dân, thì Nguyễn Tất Thành sang phương Tây để tự mình tìm một con đường cứu nước mới. Ngày 5.6.1911, Nguyễn Tất Thành khi ấy mới 21 tuổi với tên gọi Văn Ba từ bến cảng Nhà Rồng lên tàu Latusơ Tơrêvin rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Ý nghĩ này xuất hiện ở Người từ rất sớm, sau này Người nhắc lại: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ của Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái…Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Như vậy, Nguyễn Tất Thành quyết định tìm hiểu xem đằng sau từ tự do, bình đẳng, bác ái, ẩn giấu những gì sau đó “Trở về giúp đồng bào mình”. Tức là đi tìm đường cứu nước, tìm một giải pháp cho quê hương để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ.
Người (Nguyễn Tất Thành- lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc) bôn ba qua nhiều nước và nghiên cứu những cuộc cách mạng đã giành thắng lợi tại những nước tư bản phát triển nhất. Người đến cả những nơi bần cùng, khốn khổ nhất ở châu Mỹ, châu Phi, tiếp xúc với nhiều lớp người, thuộc nhiều dân tộc khác nhau để hiểu thực chất hơn về chủ nghĩa tư bản, sự áp bức dân tộc của thực dân đế quốc. Người rút ra kết luận: Ở đâu cũng có người nghèo khổ như nước mình do sự áp bức, bóc lột vô nhân đạo của giai cấp thống trị. Chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và nhân dân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa. Người khẳng định: Muốn thoát khỏi nô lệ và áp bức bóc lột thì nhân dân lao động toàn thế giới phải cùng đoàn kết lại để đấu tranh chống kẻ thù chung.
Đầu năm 1919, Người vào Đảng xã hội Pháp - một đảng tiến bộ hơn lúc bấy giờ, bởi đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực các nước thuộc địa, là tổ chức duy nhất theo đuổi ý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Tháng 6.1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây, đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Lần đầu tiên vấn đề quyền tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam được đặt ra một hội nghị Quốc tế. Mặc dù bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận, nhưng bản yêu sách và tên tuổi Nguyễn Ái Quốc đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa. Việc làm trên chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc thực sự bước vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân, bảo vệ quyền lợi của dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa.
Tháng 7.1920, Người đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo (L’Humanite), số ra ngày 16 và 17.7.1920. Bản luận cương đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ, giúp người tìm ra phương hướng đúng đắn để giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào, là theo con đường cách mạng vô sản, con đường có mục đích cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Sau này Người viết: “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đày đọa và đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo quốc tế ba”. Luận cương của Lênin đã tạo ra bước chuyển biến căn bản trong nhận thức tư tưởng giúp Nguyễn Ái Quốc đi đến khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc” .
Tại Đại hội đại biểu Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII (tháng 12.1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng là người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, vừa là người yêu nước Việt Nam vừa là một chiến sĩ quốc tế; mở đường giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng của dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Bằng thiên tài và hoạt động cách mạng nhạy bén của mình, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua những hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản, con đường duy nhất đúng đắn phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội Việt Nam.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào Cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin để truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam. Người nhấn mạnh: Cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Về tư tưởng, Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước theo lập trường của giai cấp công nhân. Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam không phải bằng các tác phẩm kinh điển, những cuốn sách lý luận đồ sộ mà bằng các tác phẩm ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ quần chúng. Những bài viết (sách, báo..), bài giảng (tác phẩm Đường cách mệnh) với lời văn giản dị, nội dung thiết thực, phương pháp phù hợp đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Về chính trị, Nguyễn Ái Quốc phác thảo hệ thống những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và sau này phát triển thành những nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Từ thực tiễn lịch sử phong trào cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới; cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa; lực lượng chủ yếu của cách mạng là công nhân và nông dân - “gốc cách mệnh”, còn “học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ” là bầu bạn của cách mệnh; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì vậy phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao; cách mạng muốn thành công, trước hết phải có một đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo..
Cùng với việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, Nguyễn Ái Quốc còn dày công chuẩn bị về mặt tổ chức để huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) tiến tới thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6.1925). Đây là một tổ chức tiền thân có tính chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ phong trào công nhân và yêu nước theo khuynh hướng vô sản. Việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Chính những thanh niên trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã tham gia phong trào “vô sản hoá” để cùng ăn, cùng ở, lao động, đồng thời truyền bá lý luận Mác - Lênin và đường lối cách mạng đúng đắn vào phong trào công nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Thông qua phong trào “vô sản hoá”, lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi và hợp qui luật cho sự ra đời của Đảng.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước đòi hỏi phải có một đảng cách mạng tiên phong đủ sức lãnh đạo và đưa phong trào tiếp tục tiến lên. Từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, trong bối cảnh tổ chức Hội Việt nam cách mạng thanh niên có sự phân hóa và mất dần vai trò lãnh đạo cách mạng, ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản đảng (17.6.1929), An Nam Cộng sản đảng (tháng 11.1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (1.1.1930).
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức. Yêu cầu bức thiết đặt ra là chấm dứt hiện tượng biệt phái, chia rẽ giữa các nhóm cộng sản, phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam. Nhiệm vụ đó đặt lên vai Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: Thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Nắm bắt được tình hình trong nước, thực hiện sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm (Thái Lan) trở lại Trung Quốc, triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản để thống nhất tổ chức, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Dưới sự chủ tọa của Người, Hội nghị đã họp từ ngày 6.1 đến ngày 7.2.1930, trong cǎn phòng nhỏ của một người công nhân ở Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu Đông Dương Cộng sản đảng); Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu (An Nam Cộng sản đảng). Đại biểu Đông Dương cộng sản liên đoàn không tham dự Hội nghị vì vừa mới được thành lập. Sau hơn một tháng làm việc khẩn trương trong hoàn cảnh bí mật, Hội nghị đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một đảng cộng sản chân chính duy nhất ở Việt Nam lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Đến ngày 24.2.1930, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời đã họp quyết định chấp nhận đơn xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam của Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Từ đây, cả ba tổ chức cộng sản Việt Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một Đảng cộng sản duy nhất. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam (ngày 10.9.1960), quyết nghị lấy ngày 3.2.1930 là Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
# Nichi <3 Kasato dotoni
Lịch sử là môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này. Những học giả viết về lịch sử được gọi là nhà sử học. Các sự kiện xảy ra trước khi được ghi chép lại được coi là thời tiền sử.
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247