1. Theo một bản gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Nghi Xuân, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, Nguyễn Du sinh ra trong gia đình đại quý tộc, nhưng năm 10 tuổi thì mất cha, 13 tuổi mất mẹ, rơi vào cảnh mồ côi phải ở cùng anh cả, có lúc làm con nuôi của một vị quan, cũng có khi đi giang hồ 3 năm ở Trung Quốc.
Chính điều kiện này, mà trong văn thơ của Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du đã hiện ra vừa dạt dào yêu thương vừa bừng bừng căm giận. Đây là nét đặc sắc và cũng là tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến Truyện Kiều (chữ Nôm), nó tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông.
Theo các tài liệu lịch sử còn lưu lại đến ngày nay, vào thời Lê mạt, anh em, con cháu dòng họ Nguyễn Tiên Điền, ở huyện Nghi Xuân vẫn thường xuyên giao du với con cháu dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Họ gặp nhau tại các đêm hát phường vải. Và Nguyễn Du đã có mối tình sâu nặng với hai cô gái hát ví phường vải đẹp người, đẹp nết, đẹp giọng, lại có tài bắt bẻ, ứng xử rất văn hóa.
Hai cô gái ấy là o Uy và ả Sạ. Cho đến ngày nay, biết bao thế hệ người đã qua song trong dân gian vẫn còn lưu truyền câu chuyện Nguyễn Du từ bên đông núi Hồng Lĩnh vượt qua Truông Cộng Khánh và bến Đò Cài để hát ví với các o phường vải thâu đêm suốt sáng với những lời thơ: Xôi nếp cái, gái Trường Lưu/Văn nhân, tài tử dập dìu/Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.
Chuyện kể rằng: Có lần Nguyễn Du từ quê hương Tiên Điền vượt qua Ngàn Hống (núi Hồng Lĩnh) sang làng Trường Lưu để tham dự đêm phường vải, nhưng hôm đó không may gặp phải trời mưa to gió lớn, đợi mãi không có người chèo đò qua sông Cài, bỗng có tiếng ví cất lên: Sóng to thuyền nhỏ khó sang/Thiếp nguyền thiên địa giúp chàng một phen... Hướng theo tiếng hát, có con đò nhỏ với một mái chèo con của một cô gái biết chàng trai họ Nguyễn muốn sang hát ví, nên chẳng quản gió mưa và đã chèo thuyền vượt sóng giúp chàng nho sĩ kịp về Trường Lưu để hát hội.
Thế rồi cũng vì say hát ví nên chàng trai họ Nguyễn Tiên Điền có mối tình quyến luyến với các cô gái Trường Lưu. Hát với nhau rồi thân nhau đến mức trai làng phải phát ghen lên và gây sự nổ pháo lói để phá đám. Vốn là người nhút nhát, sợ mang tai tiếng, Nguyễn Du trở về Tiên Điền và từ đó không dám sang làng Trường Lưu nữa. Vì sự việc ấy mà Nguyễn Huy Quýnh mới thác lời người con gái Trường Lưu gửi trai phường nón Tiên Điền mà rằng: Tảng mai hầu trở ra về/Hồn tương tư hãy còn mê giấc nồng/Cơi trầu chưa kịp tạ lòng/Tỉnh ra khách đã non sông mấy vời/Trời làm chi cực bấy trời/Cơi trầu này để còn mời mọc ai?/Tím gan hắt đổ ra ngoài/Trông theo truông Hống, đò Cài thấy đâu...
Cảm động trước tình cảm đó, Nguyễn Du đã viết bài “Thác lời Tiên Điền gửi gái Trường Lưu” với lời lẽ vô cùng thắm thiết: Tiếc thay duyên Tấn, phận Tần/Chưa quen đã lạ, chưa gần đã xa/Chưa chi đông đã rạng ra/Đến giờ chỉ giận con gà chết toi/Tím gan cho cái sao mai/Thảo nào vác búa chém trời cũng nên/Về qua liếc mắt trông miền/Lời oanh giọng ví chưa quên dằm ngồi/Giữa thềm tàn thuốc còn rơi/Bã trầu chưa quét nào người tình chung/Hồng Sơn cao ngất mấy tầng/Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu...
Và về sau khi nghe tin o Uy, o Sa đi lấy chồng, Nguyễn Du buồn giận và đã viết bài “Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ”, với sự chua chát rằng: Những ngỡ trăm năm trước, hẹn hò đã chắc, để phũ phàng ba chốn bốn nơi/Nào ngờ tháng sau này, tệ bạc làm sao bỗng tống táng một tuần hai ả/O sao mà quên ta cho đành/Nói thế mà lấy chồng được ra tá?... Cũng theo giai thoại, Nguyễn Du tới Trường Lưu rồi quen và đem lòng thương nhớ các cô phường vải. Nhưng rồi ông đã không vượt qua được sự ghen tuông, đố kỵ của đám trai làng nên đã bỏ về Tiên Điền. Cô phường vải ở lại với cơi trầu ôi, chỉ biết trông theo Ngàn Hống, đò Cài, nhưng Hầu đã đi xa. Cô gái mang bệnh tương tư rồi bỏ cả nghề bông vải.
2. Sau khi cha mẹ mất, Chiêu Bảy (tức Nguyễn Du) được anh trai là Nguyễn Khản gửi sang học tại nhà một ông thầy có tiếng ở Gia Lâm. Hằng ngày, cậu Bảy phải đi đò ngang qua sông Nhị Hà. Nhờ đó mà mối tình đầu tiên Nguyễn Du đã trao gửi cho một cô gái lái đò ngang là Đỗ Thị Nhợt (có tài liệu ghi Đỗ Thị Nhật). Nhợt là cô gái tay trần, chân đất, mặc áo nâu sòng nhưng trong mắt Chiêu Bảy nàng là người xinh xắn, duyên dáng, có phần thông minh, sắc sảo. Do vậy, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén là chuyện thường tình.
Một hôm, đò vắng khách nên cô Nhợt có vẻ chần chừ chưa muốn qua. Cậu Chiêu Bảy lo chậm mất buổi học nên đã trổ tài ứng tác những lời cầu cứu cô gái lái đò: Cô ơi, chèo chống tôi sang/Kẻo trời trưa trật lỡ làng tôi ra/Còn nhiều qua lại, lại qua/Giúp cho nhau nữa, để mà... Chiêu Bảy cố tình ngập ngừng, ý muốn thăm dò thái độ của đối phương. Cô Nhợt cũng ngỡ ngàng khi thấy một công tử sang trọng, đẹp trai như vậy mà để ý đến mình, cô liền nhẹ nhàng hỏi lại: Cậu đã đọc hết đâu? Sao nữa cậu? Chiêu Bảy đỏ mặt, tía tai nhưng vẫn giả vờ ngây thơ: Còn hai chữ nữa, muốn cô gợi cho. Cô Nhợt cũng hơi lúng túng, giả vờ như không nhìn thấy người con trai, vừa nói vừa nhấc mạnh tay chèo: Thưa cậu, vậy thì cứ nói thẳng ra hai chữ quen nhau có được không ạ?
Chiêu Bảy lúc này đã thực sự cảm kích bởi một cô gái bình dị lái đò trên sông nước mà cũng có một tâm hồn thi ca lãng mạn đến vậy, càng ngày cậu càng cảm mến cô gái chèo đò. Thế rồi, chỉ mấy ngày sau đó, đôi trai tài gái sắc đã chủ động chuyển hai từ “quen nhau” thành “thương nhau”. Vào một buổi chiều, cậu Chiêu Bảy từ Gia Lâm trở về, con đò lại nhẹ lướt trên sông và cũng chỉ có hai người. Trước cảnh sông nước mênh mang, cậu say đắm nhìn vóc người thiếu nữ thon thả, yểu điệu với đôi tay khua mái chèo nhịp nhàng, uyển chuyển của cô Nhợt.
Như có linh tính, cô gái bỗng dưng cất tiếng nhỏ nhẹ, nhưng chủ động: Hôm nay có thể đổi chữ quen thành chữ khác được rồi đấy cậu Chiêu ạ. Chiêu Bảy mừng rỡ, đứng bật dậy nói vẻ tình tứ: Ấy, muốn đổi được là nhờ cô Nhợt thôi. Cô Nhợt giả vờ như không nghe thấy, cô thả tay chèo cho thuyền tự trôi rồi cô nói dồn dập trong hơi thở: Ta đổi chữ quen, chữ thương thành chữ yêu được không anh, à... cậu Chiêu? Cô ngước nhìn cậu Chiêu và cũng đón nhận được một cái nhìn đắm đuối si mê của người con trai, thế rồi họ yêu nhau từ đó. Chiêu Bảy càng say sưa, chăm chỉ đi học và hồn thơ ngày càng lai láng.
Nhưng tình yêu của một công tử con quan Tể tướng với cô gái chèo đò bần hàn đã không đủ sức mạnh để vượt qua lễ tục phong kiến. Những tưởng đôi bên sẽ có được hạnh phúc bền lâu, không ngờ chuyện tình kỳ diệu này đã đến tai gia đình Nguyễn Du, thế là bi kịch tình yêu bắt đầu từ đó. Quan niệm “môn đăng hộ đối” không thể cho phép một công tử con quan Tể tướng lấy một cô gái lái đò được. Chuyện đến tai Nguyễn Khản, ông cho là em trai mình đã xúc phạm đến danh giá của gia tộc nên ông đã xử sự một cách cứng rắn.
Sau đó, Nguyễn Khản sai người đến gặp thân phụ của cô Nhợt để trách mắng và ông lại tiếp tục gửi em trai đến một nơi biệt lập với kinh đô Thăng Long và sông Nhị Hà, đó là Thái Nguyên và nhờ một người dưỡng phụ họ Hà của cậu Chiêu chăm sóc. Trước quyết định của “quyền huynh thế phụ” buộc cậu Chiêu Bảy phải ngoan ngoãn tuân theo. Phép nhà là vậy, còn lệ làng cũng không cho phép cô gái lái đò chòng ghẹo con quan! Thế rồi đò ngang bị các chức dịch trong làng thay người chèo chống. Nghe đâu, ít lâu sau cô Nhợt cũng bị ép đi lấy chồng. Từ đây, cậu Chiêu Bảy không thể có cách nào để gặp được người tình nữa.
Khi Nguyễn Du từ Thái Nguyên trở về Thăng Long, nhìn bến sông thì vẫn còn đó, nhưng người đưa đò đã là một bác nông dân khác. Mối tình đầu tan vỡ, cậu đành phải thốt lên những câu thơ chua chát: Yêu nhau những muốn gần nhau/Bể sâu trăm trượng, tình sâu gấp mười/Vì đâu cách trở đôi nơi/Bến nay còn đó, nào người năm xưa/Trăm năm dẫu lỗi hẹn hò/ Cây đa bến cũ, con đò thuở xưa/Cây đa bến cũ còn lưa/Con người năm ngoái năm xưa đâu rồi?
- Sưu tầm trên báo Bình Phước
Nghêu ngao vui thú yên hà Mai là bạn cũ, hạc là người quen
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen
Mai là bạn cũ, hạc là người quen
Trong dịp cụ Tố Như đi sang Trung Quốc, cụ có tới thăm một xưởng gốm chuyên chế tạo đồ sứ bán sang nước ta. Người chủ xưởng có nhã ý đem cụ xem một số chén đĩa mộc trên đó vẽ cảnh mai hạc và xin cụ đề cho một câu thơ để làm kỷ niệm. Cụ Tố Như liền cầm bút nhúng vào men xanh viết ngay câu thơ bằng chữ Nôm:
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen
Về sau, những chén đĩa sứ mang bút tích Tố Như đã sang Việt Nam, đến nay có gia đình còn giữ được đĩa "mai hạc", và câu thơ trên được nhân dân ta ca dao hoá.
* * *
Hồng Nghi Xuân - hồng tiến
Cũng trong chuyến đi đó, trên đường về, khi qua tỉnh Quảng Tây, cụ Tố Như có lấy đem về nước một giống hồng cát, quả to, dài, vị ngọt, ruột vàng, hầu như không có hạt, nên muốn trồng người ta phải dùng phương pháp chiết cành. Giống hồng ấy, người địa phơng gọi là hồng Nghi Xuân, hoặc hồng tiến, vì ngày xa dân Nghi Xuân phải dành một số quả tốt để tiến lên vua dùng
(Sưu tầm)
Chúc bạn học tốt!
Cho mình xin 5*+ trả lời nhay nhất nha !!!!
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247