Một số hình thức Tu từ thường gặp trong các bài tập đọc lớp 5:
Lặp đầu cùng với sóng đôi ở đây có tác dụng làm nổi bật những từ ngữ quan trọng, nhấn mạnh vào những sắc thái ý nghĩa, biểu cảm, làm cho những dòng thơ ngắn, tự nhiên, mộc mạc- như câu đồng dao- nối liền thành một mạch câu mà vẫn giữ được giọng điệu nhịp nhàng, trong trẻo: hạt gạo phù sa-của sông kinh thầy-có lời mẹ hát-ngọt bùi hôm nay. Đối với Trần Đăng Khoa, hạt gạo không chỉ là dẻo, thơm, mà cái sâu sắc, tinh tế hơn là ở chỗ: vị dẻo thơm đó được chắt lọc từ những cái gì đẹp đẽ, thân thiết nhất ở cái làng nghèo bé nhỏ bên bờ sông Kinh Thầy: Dòng sông với cánh đồng màu mỡ phù sa, hương sen thơm và lời ru của mẹ, cuộc sống hàng ngày nơi làng quê với bao điều thân thương. Lặp dầu kết hợp với sóng đôi cũng nhấn mạnh được sắc thái ý nghĩa- cảm xúc” khắc nghiệt, dữ tợn” của thời tiết. Mưa tháng ba ghê gớm: mưa phùn đi với cái rét, rét cắt da cắt thịt. Bão giật tháng bảy: Sau trận bão cả cánh đồng mất trắng:
“Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba”
Lặp đầu kết hợp với sóng đôi cũng làm nổi bật được những năm đánh Mĩ hào hùng : Giặc Mĩ ném bom xuống làng quê ta, người ra đi chiến đấu, người ở lại vừa sản xuất vừa chiến đấu, gặt những vụ mùa bội thu:
“Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mĩ
Trút lên mái nhà…”
Lặp đầu kết hợp với sóng đôi cũng tô đậm được cái sứ mệnh cao cả của hạt gạo bé nhỏ, cũng đồng thời là cái đức tính chịu đựng hi sinh cao quý của những người làm ra hạt gạo: quanh năm độn khoai, độn sắn để dành gạo cho chiến trường. Câu thơ cũng có được một nhịp điệu dồn dập khẩn trương:
“hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta”
Trong bài thơ trên có một hình ảnh có một tư tưởng nghệ thật bất ngờ được xây dựng trên cơ sở của đối chọi:
“Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy”
Phải có con mắt trẻ thơ mới có thể viết được câu thơ: “nước như ai nấu; chết cả cá cờ”. phải sống ở nông thôn mới có thể biết được nước ruộng nóng quá cua phải ngoi lên bờ. Nhưng phải là người có thơ mới có thể viết được:
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
Đối chọi ở dây đã nêu bật bản chất của đối tượng được miêu tả nhờ thể đối lập tương phản và do đó không cần nói gì nhiều mà có thể biểu hiện được những nổi vất vả, nhọc nhằn của người mẹ để làm ra hạt gạo. Đối chọi đã tạo được một sự diễn đạt ngắn gọn, cô đúc có tiết tấu và gây ấn tượng mạnh mẽ.
Dựa trên các biện pháp của từng nội dung bài tập đọc mà tôi phân tích nghệ thuật một cách có chiều sâu để giúp học sinh cảm nhận giá trị nghệ thuật đó có hệ thống logic.
Người ta đi cấy lấy công,
…
Trời yên, biển lặng mới yên tấm lòng…
Để làm ra hạt gạo trắng ngần các bác nông dân đã phải đổ xuống ruộng bao nhiêu giọt mồ hôi. Hai câu thơ mở đầu đã khái quát nên nỗi vất vả đó:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.”
Cày ruộng là một công việc vất vả. Cày ruộng đã vất vả rồi lại làm vào thời điểm nắng nóng nhất, lúc “ban trưa”. Miêu tả những giọt mồ hôi của người nông dân tác giả đã dùng từ “thánh thót” thể hiện sự trân trọng của tác giả đối với người lao động. Tác giả đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo “mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”. Biện pháp so sánh ấy gợi tả hình ảnh những giọt mồ hôi liên tiếp nhau rơi xuống, cho thấy sự cực nhọc, vất vả của những người nông dân khi caỳ ruộng. Những giọt mồ hôi như mưa là công sức, là tâm huyết của người dân lao động đổ xuống mỗi thửa ruộng để tạo nên sức sống cho cây lúa. Hình ảnh so sánh này không những chỉ gợi tả mà còn hàm chứa những ý nghĩa sâu xa. Những hạt thóc mẩy vàng là kết quả của quá trình tích tụ mồ hôi và công sức của người nông dân. Vì thế bài ca dao khuyên:
“Ai ơi, bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Để có được bát cơm đầy biết bao giọt mồ hôi của người lao động đã đổ xuống đồng ruộng. tác giả đã sử dụng phép đối trong câu thơ cuối để làm nổi bật ý nghĩa ấy.
Dẻo thơm>< đắng cay
Một hạt >< muôn phần
Từ đó nhắc nhở mọi người phải biết trân trọng hạt gạo, biết tiết kiệm và nhất là phải quý trọng và biết ơn người nông dân, những người đã phải hàng ngày hàng giờ tưới lên đồng ruộng những cơn mưa mồ hôi để đồng lúa xanh hơn, bông lúa trĩu nặng hơn.
“Ơn trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.”
Sự lặp lại cấu trúc “nơi thì” đã tái hiện được phần nào không khí lao động khẩn trương, cần mẫn cho kịp thời vụ của người nông dân. Họ hăng say lao động bởi họ luôn tin tưởng:
“Công lênh chẳng quản bao lâu
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.”
Công lênh nghĩa là công sức, người nông dân và tin tưởng, công sức lao động bỏ ra sẽ được trả bằng những hạt thóc vàng. Từ đó, tác giả đưa ra lời khuyên:
“Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.”
Mỗi tấc đất là một tấc vàng, với bàn tay lao động cần cù, con người sẽ biến thành những mảnh đất khô cằn hoang hoá thành những đồng lúa chín vàng. Bài ca dao đã đưa ra một lời khuyên bổ ích cho con người phải chăm chỉ, phải cần cù lao động. Lòng yêu lao động của nhân dân ta đã được thể hiện rất rõ ràng trong bài ca dao này:
“Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.”
Sự lặp lại nhiều từ”trông” đã diễn tả được nỗi lo lo lắng trăm bề của người nông dân khi đưa cây lúa xuống đồng. Điều đó cũng thể hiện được nỗi vất vả của người nông dân khi làm ra hạt gạo. Thế nhưng, dù phải đứng trước bao nhiêu khó khăn vất vả, cả những bất trắc có thể xảy ra trong sản xuất, người nông dân vẫn kiên trì, cần cù làm lụng và quết tâm vượt khó khăn. Những nổi lo lắng của người lao động thì thực sự vơi đi khi tự tin rằng sức lao động của con người sẽ chiến thắng được thiên nhiên.
“Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng
Chân cứng đá mềm “là câu thành ngữ nói đến khả năng vượt qua mọi khó khăn của con người. Câu thành ngữ được đưa vào bài ca dao này với ý nghĩa khẳng định tinh thần kiên cường của người lao động. Để tìm ra hạt gạo, người nông dân phải đối diện với rất nhiều nỗi khó khăn, vất vả bao nỗi lo lắng về khí hậu và thời tiết nhưng họ vẫn quyết tâm, vẫn kiên cường để vượt lên sản xuất. Lo lắng, để tránh được những tai hoạ do thiên nhiên gây ra va người nông dân chỉ thực sự yên lòng khi “trời yên biển lặng”. Bài ca dao một lần nữa khẳng định sự vất vả của người nông dân khi làm ra hạt gạo để nhắc nhở mọi người hãy nhớ đến những con người phải một nắng hai sương ấy. Đồng thời bài ca dao đã khẳng định và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động, phẩm chất được ngợi ca ở đây là ý chí, là quết tâm sắt đá, là lòng yêu lao động của con người.
Bài: TRANH LÀNG HỒ
Bài văn gồm hai đoạn. Đoạn thứ nhất biểu hiện lòng khâm phục và biết ơn của tác giả đối với những người vẽ tranh, chủ yếu bằng một lời trau chuốt có sử dụng phương tiện hoán dụ: “lòng tôi thấm thía một nỗi biết ơn đối với những người nghệ sĩ tạo hình của nhân dân”, nếu so sánh với nói bình thường chẳng hạn : “Tôi biết ơn thật sâu sắc và chân thành những ngươì vẽ tranh dân gian”, thì mới thấy được giá trị gợi hình, gợi cảm của cách nói bóng bẩy dựa trên cơ sở sự gần nhau trong thực tế khách quan của các sự vật :lòng tôi- tôi, người hoạ sĩ- người hoạ sĩ tạo hình.”tôi biết ơn một cách chân thành sâu sắc” là cách nói trừu tượng, còn cách nói “lòng tôi thấm thía một nỗi biết ơn” là một sự diễn đạt vừa mang tính cụ thể hình tượng vừa có khả năng diễn tả sâu sắc. Dùng “người hoạ sĩ tạo hình nhân dân” thay cho “người vẽ tranh dân gian” là dùng cách nói chuyển ngữ để nhấn mạnh ý nghĩa nghệ thuật cao của tranh dân gian, để thể hiện trình độ nghệ thuật cao của những người vẽ ra nó. Đề tài tranh làng hồ thường lấy chủ đề trong cuộc sống hàng ngày ở làng quê Việt Nam. Nhưng tính chất phong phú, đa dạng của những con, cây, người, vật, gần gũi trong sinh hoạt đã làm nên sức hấp dẫn của tranh dân gian. “Phải yêu quý cuộc đời trồng trọt, chăn nuôi lắm mới khắc được những tranh lợn ăn ráy có những xoáy âm dương rất có duyên, mới vẽ được những đàn gà con tưng bừng như ca múa bên gà mẹ”. Câu trên là một câu suy tưởng khẳng định một cách ngắn gọn cái điều kiện “phải yêu mến cuộc đời trồng trọt, chăn nuôi lắm” vốn đưa đến một hệ quả tốt đẹp “mới khắc phục được những tranh lợn ráy và những xoáy âm dương rất có duyên, mới vẽ được những đàn gà con tưng bừng như ca múa bên gà mẹ”. Cách viết sóng đôi “mới khắc được…/ mới vẽ được…” trong thành phần câu chỉ hệ quả trên làm cho câu nói trở nên nhịp nhàng cân đối và phần này đã góp phần vào sự thể hiện lòng yêu thích và ý ca ngợi những bức tranh gà, lợn vui tươi sinh động làm cho bức tranh miêu tả thêm sống động. Đoạn văn thứ hai là đoạn văn vừa kể vừa tả. Mỗi câu trong đoạn được chia ra thành hai phần cách nhau bằng dấu hai chấm:phần trước là kể, phần sau là tả, tả để giải thích cho kể để cụ thể hoá phần vừa kể: “Kĩ thật tranh làng hồ đã đạt đến sự trang trí tinh tế: những bộ tranh Tố Nữ áo màu, quần hoa chanh, nền đen lĩnh của một thứ màu đen rất Việt Nam. Màu đen không pha bằng thuốc mà luyện bằng bột than của bột rơm nếp, than của cói chiếu, của lá tre mùa thu rụng, là những chất liệu gợi nhắc thiết tha đến đồng quê dất nước.. Cái màu tráng điệp lấy từ vỏ sò cũng là một sự sáng tạo góp vào kho tàng màu sắc của dân tộc trong hội hoạ. Điệp ngữ “tăng thên…tăng thêm…” trong những thành phần câu đẳng lập có tác dụng nhấn mạnh, nhiệt tình ca ngợi tác dụng của màu trắng điệp.
1. Kết luận:
Khác với những phân môn khác, phân môn tập đọc dùng phương tiện là các tác phẩm văn chương cụ thể là (là những bài văn, bài thơ) để giáo viên và học sinh cùng tìm hiểu.
Ẩn dụ và hoán dụ là biện pháp tu từ các em đã được học từ các lớp dưới. Để hiểu rõ hơn về hai phép tu từ này chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thực hành phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ. Qua bài học các em có thể vận dụng những kiến thức mình đã học để làm các bài tập và nâng cao vốn hiểu biết của mình về hai phép tu từ này.
Tiếng Việt, cũng gọi là tiếng Việt Nam Việt ngữ là ngôn ngữ của người Việt và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam cùng với hơn 4 triệu Việt kiều. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam và là ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại Cộng hòa Séc.
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 4 - Năm thứ bốn ở cấp tiểu học, kiến thức ngày một tăng, sắp đến năm cuối cấp nên các em cần chú đến học tập nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247