Tín ngưỡng mang đậm màu sắc đạo lý “Uống nươc nhớ nguồn”
Tâm thức nhân dân luôn nhớ về thời Hùng Vương, với những huyền thoại đẹp về các nhân vật, có phần thánh và có cả phần người, của buổi đầu dân tộc có tên. Nhìn dưới con mắt văn hóa dân gian và góc nhìn của ngành nhân học: Huyền thoại mẹ Âu Cơ không chỉ là chuyện cái bọc trăm trứng, không chỉ là chuyện chia nhau xuống biển, lên núi. Đó còn là chuyện dân tộc ta có cùng một cội nguồn, gắn bó máu thịt keo sơn, còn là chuyện xác định cương vực cư trú của cộng đồng bản địa.
Đi tìm những chứng cứ cụ thể, xác định những niên đại... để vẽ nên một bức tranh bằng phương pháp khoa học về thời bình minh dựng nước của dân tộc là công việc của các nhà khảo cổ học, các nhà sử học, các nhà văn hóa học. Nhưng người Việt Nam, xưa đã vậy và nay vẫn vậy, vẫn tin tưởng chân thành mà chưa vận dụng đến các thành tựu của khoa học rằng mình là con cháu vua Hùng, khởi nguồn sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ.
Trong đời sống tâm linh của người Việt, thời Hùng Vương và các vua Hùng có vị trí đặc biệt quan trọng. Chỉ cần nêu để so sánh: Trong số bốn vị “tứ bất tử” trong tâm linh người Việt: Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh thì ba vị đầu tiên thuộc thời Hùng Vương. Chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh; chuyện người con của vua Hùng, tên gọi Lang Liêu, hiếu thảo với bánh chưng, bánh dày dâng cha mẹ; chuyện Thánh Gióng; chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung... là những huyền thoại lung linh, sinh động và hấp dẫn của nền văn hiến Việt Nam đậm bản sắc. “Vua Hùng” đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng mà gần gũi trong tâm thức Việt, chẳng cần luận giải có thực hay không có thực. Vua Hùng ở cõi siêu trần nhưng không siêu nhân, siêu nhiên đến mức xa cách nhân dân. Nhân dân vẫn gọi vua Hùng là “Đức Tổ”, thờ phụng thành kính cũng như thờ tổ tiên ở nhà chỉ có điều ở tầng cấp cao hơn mà thôi. Chỉ biết rằng dân chẳng thờ sai ai bao giờ!
Khi nước Việt có sử, tục thờ cúng Hùng Vương được ghi chép lại rằng đã phát triển mạnh từ thế kỷ 12, trước khi chính thức được vinh danh trong thời thịnh trị của vị vua sáng Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Trong các thời sau đó, việc tôn vinh “Quốc Tổ” của dân tộc Việt được duy trì đều đặn trong toàn cộng đồng và liên tục phát triển, mở rộng. Rất nhiều nơi, từ nhiều đời, nhân dân thờ Hùng Vương và các bộ tướng của ngài - những người có công giúp nước, cứu dân. Từ trung tâm là Phong Châu cho đến dải đất miền trung, tín ngưỡng thờ Hùng Vương và các vị anh hùng trong thời Hùng Vương rất phổ biến. Điều độc đáo của tín ngưỡng này còn ở chỗ, việc Quốc Tổ Hùng Vương được người Việt tôn vinh, nhưng lại không chiếm vị trí độc tôn tại bất kỳ sinh hoạt tín ngưỡng nào. Thậm chí, ở nhiều nơi, các vua Hùng còn được “bình dân hóa” với việc bài vị của ngài được người dân đưa về nhà, phối thờ tại bàn thờ dòng họ.
Có thể thấy rõ tín ngưỡng thờ Vua Hùng - Quốc Tổ không mang đậm màu sắc tôn giáo mà ở đó màu sắc đạo lý đậm nét hơn. Ở đó tình cảm đã trở thành giáo lý. Đó là đạo lý uống nước nhớ nguồn, là tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, cố kết cộng đồng... Trong Lễ giỗ Tổ có tiếng trống đồng âm vang hùng tráng. Các cuộc rước trang trọng tượng trưng cho những đoàn con cháu từ các miền gần xa cùng về lễ Tổ. Cũng qua việc thực hiện tín ngưỡng thờ Vua Hùng mà văn hóa dân gian quanh vùng Nghĩa Lĩnh (Phú Thọ) có môi trường để lưu truyền đời này qua đời khác.
Tín ngưỡng thờ Hùng Vương là điểm hội tụ văn hóa tâm linh và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Giáo sư - Viện sĩ Phan Huy Lê khẳng định: “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”; trong đó, tín ngưỡng thờ Hùng Vương rất độc đáo có ý nghĩa sống động. Nó mang đậm tinh thần đoàn kết dân tộc. Trải qua bao cuộc chiến tranh, với những thăng trầm của lịch sử nhưng tín ngưỡng này không bị mai một mà ngược lại nó có sức lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống người Việt. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là di sản vô giá của dân tộc Việt Nam”. Tín ngưỡng này đã được UNESCO chính thức ghi danh trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại từ ngày 6-12-2012. Đây là di sản văn hóa phi vật thể thứ hai của vùng đất tổ Phú Thọ được UNESCO ghi danh sau di sản hát xoan.
Di sản quý báu thể hiện tinh thần đại đoàn kết dân tộc
Giáo sư Hà Văn Tấn nhận xét: “Không ở đâu trên trái đất này, có một dân tộc tin rằng có một mộ tổ chung, một ngôi đền tổ chung, để một ngày trong năm, hành hương về tưởng niệm như trường hợp Việt Nam”. Tục thờ cúng những cá nhân có công sáng lập (hoặc có công lớn trong thời sáng lập) ra quốc gia vốn phổ biến ở các nước Đông Á. Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô, để toàn bộ cộng đồng tham gia vào nghi lễ này lại là điều không dễ gặp.
Trong thời hiện đại, “Quốc Tổ Hùng Vương” cũng là một biểu tượng của tinh thần đại đoàn kết dân tộc để chiến thắng. Trong lúc thế nước còn gian nan những ngày tháng đầu tiên sau Tuyên ngôn Độc lập, ngày 18-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 22/SL-CTN “cho công chức nghỉ ngày 10 tháng 3 âm lịch hằng năm để tham gia tổ chức các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương”.
Niềm tự hào về các vua Hùng ăn sâu vào tâm khảm của con người Việt Nam từ đời này qua đời khác. Niềm tự hào đó được thể hiện bằng trách nhiệm bảo vệ chủ quyền Tổ quốc thiêng liêng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với các chiến sĩ trong lần ghé thăm đền Hùng, ngày 19-9-1954, trước khi về tiếp quản Thủ đô: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Năm nay, chúng ta “Giổ tổ” trong điều kiện đặc biệt. Cả nước đang gồng mình quyết tâm đoàn kết dập dịch Covid-19. Ngày “Giỗ tổ mùng 10 tháng ba” không còn phần Hội náo nhiệt rộn rã như hằng năm mà chỉ còn phần Lễ thiêng liêng, nghiêm cẩn. Chúng ta vẫn hướng về một ngày lễ chung của cả nước với niềm tự hào và ý chí quyết tâm gắn kết cộng đồng để chiến thắng dịch bệnh như đã nhiều lần đoàn kết để chiến thắng ngoại xâm và thiên tai trong lịch sử.
Hơi dài nhưng rất đầy đủ chi tiết ý nên bn thử tham khảo nhá!
Năm 938, với chiến thắng quân Nam Hán trên Bạch Đằng giang, Ngô Vương Quyền đã mở đầu một kỉ nguyên mới: kỉ nguyên Đại Việt tự chủ.
Cũng từ đó, văn học bằng chữ Hán, sau đó thêm chữ Nôm, cùng phát triển mạnh mẽ, xuất hiện nhiều tác phẩm xuất sắc phản ánh lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc của nhân dân ta. Có thể kể đến các áng văn thơ bất hủ như Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bài Cáo bỉnh Ngô của Nguyễn Trãi và một số tác phẩm khác. Đọc các tác phẩm này ta thấy nội dung vừa nói in đậm trên từng dòng, từng trang.
Thật vậy, từ ngàn xưa, nhân dân ta vẫn luôn tự hào mình thuộc nòi giống Tiên Rồng cao quý, là một dân tộc có lòng yêu nước nồng nàn, mãnh liệt bộc phát từ trái tim của mỗi người công dân. Chính lòng yêu nước sâu sắc ấy đã khiến Trần Quốc Tuấn sục sôi căm hờn, mất ngủ quên ăn trước cảnh “sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường”, “uốn lưỡi cú diều mà xỉmắng triều đình” “đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”. Vì vậy, ông đau lòng trước thói ăn chơi của tướng sĩ thuộc hạ mình, nên đem lời lẽ chân tình, thiết tha để khuyên bảo họ dâu là con đường sông vinh, đâu là con đường chết nhục. Vì yêu nước nồng nàn mãnh liệt nên ông tận tụy lo cho vận mệnh của nước nhà, mài sắc lòng căm thù quyết không đội trời chung với bọn chúng, vững lòng chiến đấu và chiến thắng: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức ràng chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù...
{Hịch tướng sĩ- Trần Quốc Tuân)
Lòng căm tức và đau đớn dâng trào đến độ ông chỉ muôn phanh thây xé xác quân giặc. Đây chính là một biểu hiện lòng yêu nước nồng nàn và mãnh liệt của ông. Hơn một trăm năm sau, tinh thần này cũng đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong áng “thiên cổ hùngvăn Bình Ngô đại cáo” của mình: Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống
Vì sao bậc ái quốc ưu dân như Nguyễn Trãi đã phải thốt lời dứt khoát “há đội trời chung, thề không cùng sống” với bọn giặc nước. Ấy là vì bọn chúng đã gieo rắc biết bao đau thương, tóc tang và thống khổ cho nhân dân ta. Chính bọn chúng đã:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuồng hầm tai vạ
Trước thực tế ấy, nhà văn đã ghi nhận:
...Độc ác thay, trúc Nam Sơn ghi không hết tội Dơ bẩn thay, nước Nam Hải rửa không sạch mùi.
Cũng chính xuất phát từ lòng yêu nước, lòng căm thù giặc mãnh liệt và sâu sắc, mà nhân dân ta thời ấy, dưới ngọn cờ kháng chiến của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã quyết lòng chiến đấu, anh dũng hi sinh không quản ngại gian lao, vất vả, thiếu thốn và đã đi đến chiến thắng hào hùng:
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn
Can gió to trút sạch lá khô Tổ kiến hổng, sụt toang đè vỡ Trận Bổ Đằng sấm vang chớp giật Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay...
Chính lòng yêu nước đã mài sắc ý chí, tạo nên sức mạnh giúp nhân dân ta bao lần chiến thắng giặc thù. Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn. Sau này nhân dân ta cũng đã phát huy truyền thông đó để chiến thắng một cách vô cùng oanh liệt dôi với thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trong hai cuộc kháng chiến anh dũng vừa qua.
Ngoài ra, lòng yêu nước của nhân dân ta còn được thể hiện ở tình yêu quê hương, yêu hòa bình và tự hào về đất nước giàu đẹp của mình. Bài Cảnh mùa. Xuân của Trần Nhân Tông là một bức tranh quê hương đầy sức sống và rực rỡ: Chim hót véo von liễu nở đầy Thềm hoa chiếu ánh bóng mây bay
(Cảnh mùa xuân- Trần Nhân Tông)
Ánh chiều in bóng mây lên thềm. Tiếng chim hót vang trong rừng liễu đầy hoa lá cũng là tiếng ngợi ca quê hương ta thời ấy có một vẻ đẹp làm say lòng du khách nguôi quên cả chuyện nhân sự.
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân sự Chỉ tựa bao lơn đứng ngẩm trời...
Cả trong thơ Nguyễn Trãi cũng thế, quê hương ta hiện lên đẹp như tranh vẽ: Từ một “bến đò xuân” với mưa phùn rơi sống động của buổi đầu xuân:
Cỏ xanh như khói, bến xuân tươi Lại có mưa xuân nước vỗ trời...
(Bến đò xuân đầu trại- Nguyễn Trãi) đến một bức tranh quê quen thuộc, đầy thi vị của buổi cuối xuân:
Trong tiếng cuốc kêu, xuân đã muộn Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan
(Cuối xuân tức sự -Nguyễn Trãi)
Còn nhiều dòng thơ nữa khó tả hết... Tất cả không những biểu hiển lòng yêu nước mà còn là một nét đẹp của tâm hồn nghệ sĩ, tâm hồn của người Việt Nam giàu xúc dộng.
Ngoài lòng yêu nước nồng nàn như bên trên vừa chứng minh, nhân dân ta còn có tinh thần tự hào dân tộc sâu sắc. Thật vậy, nhân dân ta, từ nghìn xưa, đã luôn hãnh diện mình là một dân tộc “con Rồng cháu Tiên”, một dân tộc có
lòng yêu nước sâu sắc, lòng tự hào lớn lao về nền độc lập của đất nước mình như những dòng “thơ thần” của Lí Thường Kiệt còn mãi âm vang:
Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời.
(Sông núi nước Nam— Lí Thường Kiệt)
Song song với niềm tự hào độc lập dân tộc là niềm tự hào về văn hóa, phong tục của dân tộc ta. Nước ta tuy đất hẹp nhưng từ xưa vốn đã có một nền văn hóa riêng như trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã viết:
Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác...
Để duy trì nền văn hiến ấy, ông chả chúng ta biết đã bao lần phải xả thân chiến đấu, không ngại hi sinh gian khổ để ngày nay cháu con được tự hào về bao chiến công hiển hách của người xưa trong từng trang lịch sử hào hùng của dân tộc:
Cửa Hàm Tử bất sống Toà Đô Sông Bạch Đằng giết tươi 0 Mã
Ai cũng biết Toa Đô và Ô Mã là hai tướng giỏi của “thiên triều” nhà Minh, vậy mà đổi diện với quân dân ta thời ấy, bọn chúng chỉ là những kẻ tầm thường bại trận, người bị “giết tươi”, kẻ bị “bắt sống”. Hào khí ấy là kế thừa và phát huy hào khí một thời của Ngô Vương Quyền, người đã ghi chiến công oanh liệt trên sông Bạch Đằng, đã chôn vùi bao đạo quân, bao chiến thuyền, khí giới của giặc xuống lòng sông, hay hào khí của Hưng Đạo Vương ba lần chiến thắng quân Mông Cổ đem lại cuộc sống thanh bình yên ấm cho muôn dân để nhà thơ đời sau còn hết lời ca ngợi:
Ngạc chặt, kình băm, non lởm chởm Giáo chìm, gươm gãy, bãi dăng dăng Quan hà hiểm trở trời kia dựng Hào kiệt công danh đất ấy từng...
Những áng thơ văn cổ kể trên và bao áng thơ văn cổ chưa kể hết được ở đây đã ghi biết bao bức tranh quê hương tươi đẹp, biết bao chiến công vẻ vang lừng lẫy của dân tộc ta với sợi chỉ đỏ xuyên suốt là “lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc của nhân dân ta”.
Nhưng đâu chỉ riêng văn học cổ, mà cả các tác phẩm văn học của thời cận đại và hiện đại nữa đều phản ánh rõ nét lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc của nhân dân ta. Đủ thấy chủ đề đó xưa nay vẫn là nguồn cảm hứng bất tuyệt của người cầm bút.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 7 - Năm thứ hai ở cấp trung học cơ sở, một cuồng quay mới lại đến vẫn bước tiếp trên đường đời học sinh. Học tập vẫn là nhiệm vụ chính!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247