** Bạn tham khảo dàn ý và bài viết dưới đây **
* Dàn ý
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Khái quát nội dung tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề
B. Thân bài Vẻ đẹp chí làm trai qua tâm tình tác giả
- Chí nam nhi: Làm trai phải có ý chí nam nhi, xông pha, gánh vác.
- Nợ công danh: món nợ mà một kẻ làm trai sinh ra đã phải có trách nhiệm trả.
- “Thẹn” là trạng thái xấu hổ, ngại ngùng khi thấy chưa bằng người khác
- “Thuyết Vũ Hầu”: nói về một con người tài năng, mưu chước, hết lòng báo đáp công ơn của chủ tướng, lập được công danh sự nghiệp lớn.
- Rút ra bài học: Sống phải có ước mơ, hoài bão. Phải quyết tâm và cố gắng hết sức để thực hiện ước mơ ấy dù phải trải qua những khó khăn, thử thách.
C. Kết bài
- Đánh giá chung
- Cảm nghĩ của bản thân
** Bài viết tham khảo
Chí làm trai theo quan niệm Nho giáo xưa được thể hiện rõ qua bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ đã xây dựng nên một hình tượng đẹp về người anh hùng thời loạn: một tráng sĩ hiên ngang tay cắp ngang ngọn giáo, đánh Đông dẹp Bắc để lập công danh
Nỗi lòng đó là cái chí, cái tâm của người anh hùng:
“Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian Thuyết vũ hầu.”
Ở đây, chí làm trai mang tinh thần, tư tưởng tích cực của Nho giáo là lập công, lập danh, lập nghiệp. Quan niệm lập công danh đã trở thành một quan niệm lý tưởng để đánh giá nam nhi thời phong kiến xưa. Công danh được coi là món nợ đời mà kẻ làm trai phải trả. Trả xong nợ công danh tức là có nghĩa đã hoàn thành nhiệm vụ đối với đời, với dân, với nước. Chí làm trai thời bấy giờ khiến cho con người có thể từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỷ để thay vào đó là sự hy sinh, chiến đấu cho sự nghiệp lớn lao, cứu nước và giữ nước.
Điều đáng chú ý hơn nữa đó là bên cạnh cái chí của người anh hùng thì cái tâm còn sáng tỏ hơn nữa. Cái tâm ấy thể hiện qua nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão. Ông thẹn khi mình chưa có tài mưu lược lớn như Vũ hầu Gia Cát Lượng thời Hán để giúp cho Hán Vũ Đế cứu nước, cứu dân. Một cái nỗi thẹn nhưng không khiến cho người thẹn bị hạ thấp danh phẩm mà nó lại khiến cho ta càng trân trọng yêu thương phẩm giả tuyệt vời của thi nhân. Nỗi thẹn đặc biệt ấy vừa có giá trị nhân cách vừa cao cả, lớn lao.
Tỏ lòng vừa là nỗi lòng riêng của nhà thơ Phạm Ngũ Lão vừa là xu thế chung tất yếu của thời đại: sức mạnh, tinh thần quyết chiến, quyết thắng để giải cứu dân tộc, giải cứu nhân dân chất kẻ thù xâm lược tàn ác.
BÀI LÀM
Phạm Ngũ Lão sinh ra trên mảnh đất Hưng Yên giàu truyền thống văn hóa văn hiến nuôi dưỡng tâm hồn biết yêu học thức, yêu quê hương. Từ nhỏ, Phạm Ngũ Lão đã nổi tiếng cương trực, lớn lên một lòng trung quân ái quốc giúp vua Trần giữ yên bờ cõi. Một bậc tài danh, giỏi từ học thức tới tài võ, tài thao lược nhưng cả đời không nguôi nỗi hổ thẹn vì chưa góp công cho đất nước nhiều hơn nữa. Tâm tư đó, ai cũng thấy rõ trong bài thất ngôn tứ tuyệt “Tỏ lòng”:
“Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
Bài thơ “Tỏ lòng” hay còn gọi là “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão đã phục dựng và làm nổi bật lên một thời đại huy hoàng đầy hào khí Đông A. Hào khí ấy hiện thực hóa trong khí phách và sức mạnh của đội quân triều Trần:
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu”
(“Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”)
Trước mắt người đọc là đạo quân đang “hoành sóc” (múa giáo) luyện binh. Chiếc giáo sắt quen tay tới nhuần nhuyễn, thành nghệ thuật, chứa khí thế hiên ngang “đầu đội trời, chân đạp đất” của đội quân Sát Thát. Từ “hoành” kết hợp với “giang san” và “kỷ thu” như khiến tầm của đội quân trở nên thần thánh hóa, hóa thân của sức mạnh vĩnh cửu với thời gian và bao trùm mọi không gian.
Sẽ chẳng có một kẻ địch nào ngăn cản khí thế hổ dữ “nuốt trôi” một con trâu mộng lớn. Phạm Ngũ Lão đã ngầm so sánh tương quan lực lượng giữ quân ta và địch. Ta như loài chúa tể tuy không lớn nhất trong rừng xanh nhưng sức mạnh và nghệ thuật săn mồi có thừa. Còn trâu mộng kia ắt hẳn là quân giặc, tuy to xác nhưng kém sắc sảo, mưu trí. Phạm Ngũ Lão đang tuyên cáo với quân giặc: Đội quân các người có đông đảo tới đâu, vũ khí có tân tiến tới đâu thì cũng không địch lại được tam quân này.
Đến hai câu thơ sau, Phạm Ngũ Lão giãi bày tấm lòng:
“Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
(“Công danh nam tử con vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”)
Từ “nam nhi” nhắc đến chí làm trai quen thuộc:
“Làm trai cho đáng nên trai
Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào
Ăn thì chọn những miếng ngon
Làm thì chọn việc cỏn con mà làm”
Nếu ca dao nhắc chí làm trai để châm biếm kẻ nam nhi lười nhác không làm nên trò chống gì thì Phạm Ngũ Lão mượn chuyện chí làm trai để bày tỏ nỗi thẹn. Tác giả thẹn vì hai chữ “công danh”. Thực tế lịch sử, Phạm Ngũ Lão lập nên nhiều chiến công và được lưu danh sử sách. Tuy vậy, nhà thơ không lấy đó làm tự cao mà ngược lại còn không chịu thỏa mãn với nghiệp công danh của bản thân. Tác giả nhắc đến Vũ Hầu hay Gia Cát Lượng – một nhà chính trị, quân sự kiệt xuất giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán, Trung Quốc. Phạm Ngũ Lão hổ thẹn cho rằng bản thân chưa phục vụ nhà Trần được như Vũ Hầu giúp vua Thục. Nỗi thẹn này càng chứng tỏ tài và tâm của Phạm Ngũ Lão.
Bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đậm chất sử thi, có nhiều sáng tạo ngôn từ, giọng thơ linh hoạt khi hào sảng khi tự vấn. Bên cạnh giá trị nghệ thuật, bài thơ còn mang giá trị lịch sử khi ghi lại đậm hào khí Đông A một triều đại hùng mạnh của dân tộc Việt Nam. Qua bài thơ, ta thấy được phong cách, tài năng và nhân cách Phạm Ngũ Lão.
ch minh cau tra loi hay nhat nhe
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247