“Đi đường” là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 30 cúa “Nhật kí trong tù”. Lúc bấy giờ, người đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải lui giải tới qua nhiều nhà tù trên tinh Quảng Tây, Trung Quốc. Trải qua bao cay đắng thử thách nặng nề, Người gửi gắm bao suy nghĩ, cảm xúc của mình vào bài thơ “Tẩu lộ” này. Nam Trân đã dịch thành thơ lục bát:
“Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”
Bài thơ mang hàm nghĩa. Tác giả mượn chuyện đi đường để nêu lên cảm nhận đường đời vô củng khó khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực phải chiến thắng thở thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang.
Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là:
“Có đi dường mới biểt đường đi khó.
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác”.
Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời. đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà Ihơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm: “Lưỡi gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” (“Trăng trối” – Tố Hữu). Hình ảnh con đường được miêu tà bằng điệp ngữ “trùng san” đã làm nổi bột khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đổi diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ “cao”; dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết:
“Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”.
Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm: “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ cùa Nhà thơ – lãnh tụ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ờ tính nghiệm sinh’, nó cho thấy trài nghiệm cùa một con người ‘” ba mươi năm ấy chân không nghỉ” (Tố Hữu), đế tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trài rộng khắp bốn biển năm châu:
“Đời bồi bàn lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mĩ, châu Phi
Những đất tự do, những trời trói lọi
Những con đường cách mạng dung tìm đi… “.
(“Người đi tìm hình của nước”)
Người xưa có nhắc: “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phái biết con người ấy”
là thế.
Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện hệ quả. Khi dã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót (cao phong hậu) thì muôn dặm nước non (vạn lí dư đồ) thu cả vào tầm mắt
‘,Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tám mất ‘muôn trùng nước non’’.
Muốn vượt qua các lớp núi lên đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chi có thế mới giành được thắng lợi vẻ vang, thu dược kết quà tốt đẹp. Câu thơ Hổ chi Minh hàm chứa bài học quyêt tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống đế giành thẳng lợi. Bài học “Đi đường” thật là vô giá đối với bất cứ ai.
“Nhật ki trong tù ” có nhiều bài thơ viết về để tài “đi đường” như “Thể lộ nan “Tẩu lộ”. “Lộ thươmg”…. Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí. được đúc kết từ máu và nước mắt:
“Nui cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống lao”.
”Xữ thế từ xưa không phải dê,
Mà nay, xứ thế khó khăn hơn”.
(“Đường đời hiểm trở”)
Bài thơ “Đi đường” cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiếm, bài học về quyết tâm, vượt khổ, vươn lên giành thắng lợi trên con đường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm, ai cũng phải một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con gổng danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con dường học tập. Bài thơ “Đi đường” trở thành hành trang cho mỗi chúng ta sức mạnh để vươn lẽn thực hiện ước mơ của mình.
Chúc bạn học tốt!!!
Có những bài thơ rung động lòng ta bởi những vẻ đẹp mượt mà, mềm mại của tâm tư, cảm xúc. Có những bài thơ lại làm xao xuyến trong ánh sáng lung linh lấp lánh của vẻ đẹp ngôn từ. Nhưng cũng có những bài thơ bình dị và chân phương, mộc mạc và đôn hậu kết tinh từ bao thăng trầm nếm trải của thi nhân đã đến với ta như một nốt trầm xao xuyến, đọng lại trong mỗi trái tim một mạch nguồn xúc cảm nhuần nhị mà sâu lắng vô bờ. “Đi đường” của Hồ Chí Minh là một bài thơ như thế. Bài thơ nhắn nhủ mọi người hãy giữ vững ý chí phấn đấu, chịu đựng mọi gian khổ hi sinh trên con đường đời của mình:
“Đi đường” là bài thơ trích trong tập “Nhật kí trong tù” – lúc bấy giờ Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc với bao cay đắng, thử thách nặng nề. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt và được Nam Trân dịch thành bài thơ lục bát. Bài thơ mượn chuyện đi đường, thi nhân nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm, phải có quyết tâm cao, nghị lực lớn mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang.
Có đi đường mới biết đường đi khó. Câu khai đề của bài thơ như một nhận xét, một trải nghiệm rút ra từ thực tế. Nếu Bác Hồ không đi đường nhiều đến thế thì có lẽ cũng không rút ra được kết luận đó. Bác Hồ bị bọn giặc giải đi hết nhà tù này đến nhà tù khác, phải chịu bao nhọc nhằn, vất vả gấp nhiều lần so với khách bộ hành bình thường. Câu thơ “Trùng san chi ngoại, hựu trùng san” gợi lên lớp lớp những dãy núi chồng chất, liên tiếp nhau. Người tù bị giải trên đường đi, không biết đâu là nơi cuối trời, vượt qua dãy núi này rồi lại tiếp đến một dãy núi khác tưởng như bất tận và chỉ dừng lại khi tới một nhà tù khác hoặc trời quá tối, có khi tạm nghỉ trên một đống rạ ngoài đồng trống. Câu thơ còn có ý nghĩa như một lời triết lý đầy suy ngẫm: con đường đi hay chính là con đường đời, con đường cách mạng, càng đi càng thấy khó khăn, chông gai chồng chất, đòi hỏi phải có ý chí nghị lực để vượt qua.
Hai câu thơ kết lại, hình ảnh người đi đường đứng trên đỉnh núi cao chót vót hiện lên thật hiên ngang với một tâm hồn phơi phới niềm vui:
Câu thơ thứ ba như cầu nối, mạch thơ tiếp tục diễn tả những dãy núi cao nhưng là một sự cao hơn, cao đến tận cùng. Nhịp thơ như nhanh hơn, khẩn trhương hơn, có phần thanh thoát như một cuộc chuẩn bị. Phảng phất trong câu thơ một thứ âm nhạc tâm hồn khoan khoái, xốn xang. Vậy điều gì đã xảy ra sau đó? Một sự gục ngã? Một sự chiến thắng? Người đọc đã trút đi được gánh nặng ngàn cân và thở phào nhẹ nhõm bởi câu thơ kết: “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Chỉ trong chớp mắt, tình thế đã thay đổi, tâm trạng đã thay đổi. Từ tư thế con người bị đày đoạ tới kiệt sức tưởng như tuyệt vọng, người đi đường cực khổ ấy bỗng trở thành du khách ung dung, say sưa ngắm cảnh thiên nhiên, đất trời. Câu thơ tả cảnh nhưng không giấu nổi một tiếng reo vui hạnh phúc ở bên trong, niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao chặng đường khổ ải, đã đi và đã đến với cái đích, đang ở đỉnh cao vời vợi. Câu thơ mang một ý nghĩa triết lí trong cuộc sống: vượt qua khó khăn thử thách con người sẽ đi đến đích của thành công. Câu thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn ý chí nghị lực của Hồ Chí Minh: dù khó khăn, vất vả đến đâu, người chiến sĩ ấy vẫn không ngã lòng. “Đi đường” hay chính là con đường mà Người đang theo đuổi để thực hiện lý tưởng cao đẹp. Người đã chủ động, chấp nhận mọi khó khăn, vượt lên trên hoàn cảnh. Cách mạng phải lâu, gian khổ nhưng nhất định sẽ thắng lợi.
Bài thơ khép lại trong ý thơ triết luận về một chân lý giản đơn, cụ thể mà thật sâu sắc: đường đi – đường đời của mỗi con người. Đi đường cần quyết tâm vượt núi trèo đèo để lên tới đỉnh cao nhất, tới đích. Cố gắng vượt qua tất cả những chông gai thử thách, chúng ta sẽ trưởng thành, sẽ làm chủ được mọi nỗi buồn vui trong cuộc sống. Có lẽ vì thế chỉ với bốn câu thơ cô đọng, hàm súc, ta bắt gặp cả ba khía cạnh của con người Hồ Chí Minh: nhà hiền triết, nhà chiến sĩ và nhà thơ.
Bài thơ như một lời ca ngợi ý chí, sự chiến đấu của con người trước những thử thách cuộc đời trên con đường đến với ước mơ. Dù được ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ nhưng bài thơ hôm nay và mai sau vẫn luôn mới mẻ với con người, là người bạn đường của con người.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 8 - Năm thứ ba ở cấp trung học cơ sở, học tập bắt đầu nặng dần, sang năm lại là năm cuối cấp áp lực lớn dần nhưng các em vẫn phải chú ý sức khỏe nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247