Trang chủ Lịch Sử Lớp 5 noi ve lich su thang tram cua de quoc anh...

noi ve lich su thang tram cua de quoc anh ! câu hỏi 3805605 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

noi ve lich su thang tram cua de quoc anh !

Lời giải 1 :

Lịch sử Vương quốc Anh trải qua nhiều thăng trầm và đạt được đỉnh cao trong thời kỳ Victoria với việc bành trướng và thống trị thế giới. Đế chế Anh được xem là đế quốc lớn nhất trong lịch sử, cai trị 1/5 dân số thế giới và chiếm gần 1/4 tổng diện tích toàn cầu. 

Bằng chứng lịch sử lâu đời nhất về sự tồn tại của con người ở vùng đất Vương quốc Anh ngày nay có niên đại 500.000 năm – vào thời Đồ Đá Cũ. Cuộc sống tại đây phụ thuộc vào công cụ thô sơ mãi cho đến khoảng 2.000 năm TCN – khi những nhóm người từ vùng đất nay là Hà Lan và miền Bắc nước Đức đến cùng kỹ năng và công cụ lao động tiến bộ hơn nhiều, có thể tạo ra những công trình còn tồn tại cho đến ngày nay như vòng đá Avebury và Stonehenge. 

ến khoảng những năm 700 TCN, nhiều tộc người Celt từ Trung và Tây Âu xuất hiện tại các đảo Anh, trong đó nhóm Briton định cư tại nơi mà nay là Anh và xứ Wales. Một nhóm Celt khác là người Gaul từ bên kia eo biển Anh cũng tìm đường đến Anh để thoát khỏi đế chế La Mã đang ngày càng lớn mạnh trong lục địa. Tất nhiên đế chế La Mã cũng không thể bỏ qua ý định vươn xa về hướng Đại Tây Dương. Đến thế kỷ đầu tiên của Công nguyên, người La Mã chính thức chiếm được phần lớn vùng đất mà ngày nay là nước Anh.

Người La Mã xây đường xá, thị trấn, lập các cứ điểm quân sự… trong khi đó những người Briton cũng dần trở nên quen thuộc với các hệ thống, luật pháp, ngôn ngữ La Mã.

Nhưng sự êm ả này không kéo dài được lâu…

La Mã càng mở rộng càng phải đối mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết, đó là chưa kể đến sự xuất hiện của những chiến binh German đáng sợ từ Biển Bắc tràn xuống – nhóm Angle, Saxon và Jute. Quân La Mã rút khỏi đảo Anh vào năm 410, và ảnh hưởng của họ phai nhạt nhanh chóng một cách khó tin.

Giai đoạn từ thế kỷ 5 đến 7 đôi khi được gọi là Dark Ages bởi không có nhiều sử sách ghi chép lại, cũng như vì những cuộc tấn công dữ dội từ bên ngoài và tranh chấp nội bộ giữa các vương quốc nhỏ. Người German đã lập nên bảy vương quốc (Essex, Sussex, Wessex, Middlesex, Đông Anglia, Northumbria, Mercia), đẩy các nhóm người Celt và La Mã còn lại về phía bắc và phía tây.

Năm 865, đến lượt người Viking từ Na Uy và Đan Mạch xâm chiếm và định cư trên toàn cõi Anh Quốc, chỉ trừ xứ Wessex. Người Viking tuy bị Alfred Đại đế đánh bại năm 886 nhưng cuối cùng cũng hoàn thành được cuộc chinh phục. Vua Canute của Đan Mạch trở thành người cai trị nước Anh vào năm 1017, tuy chỉ trong khoảng thời gian khá ngắn ngủi.

Năm 1066, sau khi Vua Edward – Người Xưng tội xứ Wessex qua đời mà không có con nối dõi, cả Harold Godwinson xứ Wessex và Công tước William xứ Normandy (Pháp) cũng tuyên bố lên ngôi; và William đã giành được chiến thắng trong trận Hasting để cùng trong năm này kết thúc hoàn toàn thời đại của các vua Saxon. Nhiều cuộc nổi dạy, phản kháng đã diễn ra sau khi Vua William I lên ngôi nhưng đều thất bại. Để trừng phạt những kẻ phản kháng, William I đã tịch thu hết đất đai của họ và trao lại cho người của mình.

Giai đoạn Trung đại kéo dài từ năm 1066-1485, với vấn đề nổi bật được nêu lên là sự giằng co quyền lực giữa hoàng gia với giáo hội và với giới quý tộc. Bất đồng giữa hoàng gia và giáo hội không chỉ xoay quanh việc lựa chọn giám mục và tổng giám mục – nên chọn ai, chọn khi nào, mức độ độc lập của những vị này với nhà vua – mà còn xoay quanh việc tiền mà nhà thờ thu được sẽ phân chia ra sao cho ngân khố hoàng gia.

Còn trong mối quan hệ thứ hai, dù vẻ lý thuyết giới quý tộc sẽ trung thành với triều đình mình phụng sự, nhưng thực tế họ có những lâu đài vững mạnh, tá điền cũng như quân lính riêng. Sau những điều chỉnh, cải cách hiến pháp và luật pháp của các vị vua Norman đầu tiên như Henry I, Henry II, quyền lực của hoàng gia được củng cố những xung đột với giới quý tộc vẫn tồn tại và càng phát triển hơn dưới những triều đại vua kế vị. Xung đột này đạt đến đỉnh điểm trong triều đại của Vua John, với chiến thắng của giới quý tộc tại Rvunnymede năm 1215, buộc vua ký Đại Hiến chương Magn a Carta-văn bản công nhận nhiều quyền chính trị và tự do cá nhân (đặc biệt là cho giới quý tộc) ở Vương quốc Anh, đồng thời làm rõ rằng bất cứ ai, kể cả vua, đều phải tuân theo pháp luật.

Sau khi giành lại ngai vàng từ tay Bá tước vùng Leicester – Simon de Montfort – người đã đánh bại Henry III, Vua Edward I tiếp tục tham vọng mở rộng lãnh thổ. Để có tiền hiện thực hóa các nỗ lực chinh phục của mình, ông triệu tập hội đồng, với sự tham dự của giới quý tộc toàn vương quốc, đến cung điện Westminster bàn cách gay quỹ. Những cuộc họp như vậy tuy có nhiều khác biệt nhưng là tiền đề của Nghị viện hiện đại ngày nay.

Lâu đài đá Caernarvon được Vua Edward I (1272-1307) cho xây dựng ven biển phía bắc xứ Wales nhằm khẳng định quyền lực của mình đối với những người Wales “nổi loạn”. Năm 1284, Vua Edward I phong con trai mình, Edward II, làm Hoàng tử xứ Wales. Truyền thống thái tử của vương triều cầm quyền trở thành Hoàng tử xứ Wales được cho là để bảo đảm sự trung thành của Wales với nước Anh; truyền thống này còn được giữ cho đến ngày nay.

Nếu trong giai đoạn đầu thời kỳ Trung đại, nước Anh tuy trải qua nhiều mâu thuẫn lớn nhưng kinh tế và xã hội vẫn phát triển thì sang đến thế kỷ 14, tình hình trở nên kém tươi sáng vì hàng loạt cuộc chiến tranh và bệnh dịch Tử thần Đen – bệnh dịch hạch – làm thiệt mạng 45% dân số chỉ trong vòng hai năm. Không chỉ vậy, dưới thời Vua Edward III, Cuộc chiến Trăm năm (1337-1453) giữa Anh với Pháp bắt đầu. Cuộc chiến này không những không đem lại lợi ích lâu dài nào mà cuối cùng người Anh còn mất gần như mọi lãnh thổ trên đất Pháp. Và trong khi cuộc chiến với Pháp vẫn chưa kết thúc thì giới quý tộc Anh đã chia thành hai phe – Lancaster và York – tranh chấp với nhau giành ngai vàng trong Cuộc chiến Hoa hồng.

Vương quốc Anh đã mở rộng từ năm 1607 khi Virginia, thuộc địa chính thức đầu tiên của Anh ở châu Mỹ được thành lập. Năm 1620, các tín đồ Thanh giáo từ Anh đến định cư tại Massachusetts và các khu định cư khác được lập ra vào cuối thế kỷ 17. Đến năm 1700, phần lớn các khu định cư này do một viên chức hoàng gia cai quản và gộp lại thành Thuộc địa Đại Tây Dương của Đế chế Anh.

Nhu cầu về hàng hóa trong thế kỷ 17 – lông thú, gạo, tơ lụa, thuốc lá, đường – đã đẩy mạnh hoạt động mở rộng thuộc địa của Anh Quốc vào thế kỷ 17 và 18, cạnh tranh với Pháp và Hà Lan; ngoài hai “đối thủ” này, các hạm đội tàu của Anh Quốc còn phải cạnh tranh với Tây Ban Nha. Qua cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha (1701-1714) và chiến thắng trước quân Pháp, Anh Quốc chính thức được thừa nhận là quốc gia có quân đội hàng đầu, chủ yếu bởi tài chỉ huy của John Churchill, Công tước Marlborough.

Trong khi đó, tại “nhà”, để bảo đảm lòng trung thành của người Scotland với nước Anh và ngăn chặn các liên minh có thể có với các nước thù địch, Đạo luật Liên minh của Anh và Scotland được hai quốc hội bỏ phiếu vào năm 1707, qua đó chính thức tạo nên một vương quốc gọi là Great Britain nằm dưới sự cai trị của một hoàng gia với một quốc hội duy nhất đại diện cho cả hai đất nước. Liên minh này được giữ bất chấp những cuộc nổi dậy của phái Jacobite vào năm 1715 và 1745-1746.

Không chỉ vậy, dưới sự trị vì Nữ hoàng Anne (1702-1714), Vương quốc Anh còn bước vào giai đoạn phát triển và thay đổi nhanh chóng ờ nhiều mặt xã hội. Nhiều kênh đào mới được xây dựng, thủy lộ được cải tạo nhằm phục vụ vận chuyển hàng hóa. Các phiên chợ hàng tuần được thay bằng những cửa hiệu đầy ắp hàng hóa mở cửa hàng ngày, cải cách nông nghiệp và tập trung đất canh tác đã làm tăng số lượng nông dân nghèo và lực lượng lao động lưu động-tiền đề cho Cách mạng Công nghiệp thế kỷ 19.

Sự phát triển của các đô thị công nghiệp như Manchester, Liverpool, Leeds… chỉ trong một thế hệ với cư dân căn bản là thương nhân đã dẫn đến sự thay đổi lớn về mặt xã hội cũng như những đòi hỏi chính trị. Cuộc cách mạng này thật sự đã làm thay đổi Anh Quốc về rất nhiều mặt.

gọi theo tên của Nữ hoàng Victoria (1837-1901), chính là đỉnh cao của Vương quốc Anh trong việc bành trướng và thống trị thế giới. Những năm 1800 hòa bình và thịnh vượng trái ngược với những năm 1700 đen tối. Anh Quốc không phải chống lại những thế lực thực dân mới nổi lên, cũng không phải lo chống trả các thế lực cũ. Các quốc gia châu Âu khác tuy đang phải đối phó với những vấn đề riêng nhưng họ, cũng như Tân Thế Giới, sẵn sàng mua hết tất cả các sản phẩm vải, len, than, sắt mà Anh Quốc có thể sản xuất ra. Trong vòng 64 năm trị vì của Nữ hoàng Victoria (1837-1901), Đế chế Anh vươn từ Canada đến Australia và New Zealand, từ Singapore, Hong Kong đến Nigeria và Nam Phi, và trên tất cả là viên ngọc quý Ấn Độ.

Tuy vậy, buôn bán hải ngoại cũng dẫn tới nhiều vướng mắc quốc tế: năm 1839, Vương quốc Anh khởi sự chiến tranh Thuốc phiện với Trung Quốc; năm 1854 là chiến tranh Crime chống lại người Nga; Anh Quốc chiếm kênh đào Suez ở Ai Cập năm 1882 để bảo vệ tuyến hàng hải với Ấn Độ; chiến tranh Boer (1899-1902) tiến hành ở Nam Phi giữa lúc tranh chấp với các cường quốc Âu châu khác về thuộc địa Phi châu đang gia tăng (sau cuộc chiến này, thuộc địa của Anh Quốc ở châu Phi mở rộng đáng kể)…

Cách mạng Công nghiệp bắt đầu từ nửa sau thế kỷ 18 cung cấp nền tảng kinh tế cho việc mở rộng thuộc địa cũng như phát triển quân sự của Vương quốc Anh trong những năm 1800. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của hệ thống nhà máy và của sự đô thị hóa cũng đem lại những vấn đề xã hội mới. Việc quy hoạch những vùng đất chăn thả ở cao nguyên Scotland và công nghiệp hóa miền Nam xứ Wales đi cùng với những chuyển dịch dân cư rộng lớn và dẫn đến những chuyến di cư quy mô lớn đến Mỹ, Canada và Australia.

Thảo luận

Lời giải 2 :

Đế quốc Anh (tiếng Anh: British Empire) bao gồm các vùng tự trị, thuộc địa, bảo hộ, ủy thác và những lãnh thổ khác do Vương quốc Anh và các quốc gia tiền thân của nó cai trị hoặc quản lý. Đế quốc Anh khởi nguồn với các thuộc địa và trạm mậu dịch hải ngoại do Anh thiết lập từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII. Vào giai đoạn đỉnh cao của nó, đây là đế quốc có diện tích lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử và là thế lực đứng đầu toàn cầu trong hơn một thế kỷ.[1] Đến năm 1913, Đế quốc Anh cai trị khoảng 412,2 triệu người, chiếm 23% dân số thế giới lúc đó[2] và bao phủ diện tích hơn 35.000.000 km², gần một phần tư tổng diện tích toàn cầu, vào năm 1920.[3][4] Đế quốc Anh còn là đế quốc có lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử thế giới, do vậy những di sản về văn hóa, ngôn ngữ, luật pháp của Đế quốc Anh được truyền bá rộng rãi. Vào thời điểm nó đạt tới đỉnh cao của quyền lực, Đế quốc Anh thường được ví von với câu nói bất hủ "Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn" bởi vì sự mở rộng lãnh thổ ra toàn thế giới và mặt trời luôn tỏa sáng trên một phần Đế quốc của nó.Trong suốt Thời đại Khám phá vào thế kỷ XV và XVI, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai quốc gia châu Âu đi tiên phong trong đứng đầu phong trào thám hiểm thế giới và trong quá trình đó họ đã thiết lập các đế quốc hải ngoại lớn. Đố kỵ với sự thịnh vượng vô cùng lớn cùng nhiều lợi ích riêng mà hai đế quốc thực dân này giành được, các nước Anh, Pháp và Hà Lan bắt đầu thiết lập các thuộc địa và các mạng lưới mậu dịch của họ tại châu Mỹ, châu Á và Châu Phi.[5] Một loạt cuộc chiến với Pháp và Hà Lan trong thế kỷ XVII và XVIII đã giúp Anh trở thành một cường quốc chi phối thống trị tại Bắc Mỹ và Ấn Độ. Nhưng đồng thời, uy thế của nước Anh (và cả Pháp[6]) bị hạn chế tại châu Âu sau năm 1763, trước sự phát triển lớn mạnh của các cường quốc phía Đông như Phổ, Áo và Nga.[7][8]Sự kiện Mười ba thuộc địa tại Bắc Mỹ giành được độc lập vào năm 1783 sau cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ khiến cho nước Anh mất đi một số thuộc địa lâu đời nhất và đông dân nhất của mình. Ngay sau đó nước Anh nhanh chóng chuyển sự quan tâm sang châu Phi, châu Á và Thái Bình Dương. Sau thất bại của nước Pháp trong cuộc chiến tranh Napoléon (1803 – 1815), nước Anh tận hưởng một thế kỷ thống trị hầu như không có đối thủ, và mở rộng phạm vi trên khắp toàn cầu.[9] Địa vị thống trị của Anh sau này được ca ngợi như là Pax Britannica (Thái bình Anh Quốc), một giai đoạn mà châu Âu và thế giới tương đối thái bình (1815 – 1914), đây là thời điểm mà nước Anh nắm quyền bá chủ toàn cầu và trở thành người canh giữ cho hoà bình thế giới.[10][11][12][13] Vào đầu thể kỷ 19, cuộc Cách mạng công nghiệp bắt đầu biến đổi nước Anh; tại thời điểm diễn ra cuộc "Đại Triển Lãm" vào năm 1851, nước Anh được ca ngợi như là "công xưởng của thế giới".[14] Đế quốc Anh còn bành trướng đến Ấn Độ, phần lớn Châu Phi và nhiều khu vực khác trên thế giới. Cùng với sự kiểm soát chính thức của nước Anh đối với các thuộc địa riêng của mình, nó còn thống trị gần như toàn bộ nền thương mại của thế giới đồng nghĩa với việc là nó kiểm soát nền kinh tế của nhiều khu vực khác như châu Á và Mỹ Latinh.[15][16]Tại nước Anh, những quan điểm chính trị đã thay đổi theo hướng ủng hộ chính sách tự do thương mại cùng chính sách tự do và phổ cập hoá đặc quyền bầu cử. Vào thế kỷ XIX, dân số của nước Anh đã gia tăng một cách mạnh mẽ, cùng với đó quá trình đô thị hoá nhanh chóng mà gây nên những căng thẳng nghiêm trọng về cả kinh tế cũng như xã hội.[17] Để tìm kiếm các thị trường và các nguồn tài nguyên mới, Đảng Bảo thủ dưới thời Benjamin Disraeli đã khởi động một kỷ nguyên mới của chủ nghĩa bành trướng đế quốc tại Ai Cập, Nam Phi và nhiều nơi khác. Nhiều thuộc địa như Canada, Úc và New Zealand được trao quyền tự trị, một vài trong số đó được tái phân loại là quốc gia tự trị.[18]Đến đầu thế kỷ XX, sự phát triển lớn mạnh của Đế quốc Đức và Hoa Kỳ dẫn đến sự uy hiếp lớn đến phần nào vị thế dẫn đầu về kinh tế của nước Anh. Chính sách đối ngoại của Anh quốc tập trung vào mối quan hệ hợp tác chặt chẽ và hữu nghị với Hoa Kỳ, nhưng những căng thẳng về vấn đề ngoại giao và quân sự khiến quan hệ với nước Đức ngày càng trở nên xấu đi và là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Anh đã phải dựa nhiều vào đế quốc của mình về mặt nhân sự cũng như lương thực. Cuộc chiến này đã tạo ra một gánh nặng to lớn cả về mặt quân sự, tài chính và nguồn nhân lực cho nước Anh. Mặc dù sau cuộc chiến này, cương thổ của Đế quốc Anh đã được mở rộng lên tới cực điểm, bản thân nó đã không còn giữ được vị thế như là một cường quốc vô song về quân sự và công nghiệp được nữa. Trong Chiến tranh thế giới lần hai, các thuộc địa của Anh tại Đông Nam Á đã bị Nhật Bản chiếm đóng, điều này đã làm cho uy tín của đế quốc Anh bị suy giảm nghiêm trọng và đẩy nhanh quá trình sụp đổ của Đế quốc này. Sau chiến tranh, Anh phải trao quyền độc lập cho các thuộc địa của mình, trong đó đông dân và giá trị nhất là Ấn Độ. Trong những năm còn lại của thế kỷ XX, phần lớn những thuộc địa của Đế quốc Anh giành được độc lập như một phần của phong trào phi thuộc địa hóa từ các cường quốc châu Âu, sau đó Đế quốc Anh cáo chung với việc chuyển giao Hồng Kông cho Trung Quốc vào năm 1997.[19][20][21][22] 14 lãnh thổ ở hải ngoại hiện vẫn thuộc chủ quyền của Anh. Sau độc lập, nhiều thuộc địa của Anh gia nhập khối Thịnh vượng chung các Quốc gia, một hiệp hội tự do của các quốc gia độc lập. 16 quốc gia có chung một người lãnh đạo duy nhất, Nữ hoàng Elizabeth II, đó mới là chính thức Vương quốc Khối thịnh vượng chung.học tốt nhé bạn !

Bạn có biết?

Lịch sử là môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này. Những học giả viết về lịch sử được gọi là nhà sử học. Các sự kiện xảy ra trước khi được ghi chép lại được coi là thời tiền sử.

Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thư

Tâm sự 5

Lớp 5 - Là năm cuối cấp tiểu học, áp lực thi cử nhiều mà sắp phải xa trường lớp, thầy cô, ban bè thân quen. Đây là năm mà các em sẽ gặp nhiều khó khăn nhưng các em đừng lo nhé mọi chuyện sẽ tốt lên thôi !

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247