Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đã có rất nhiều vị anh hùng được ghi danh, nhưng người ta vẫn mãi khắc ghi truyền thuyết về một anh hùng được ca tụng là Phù Đổng Thiên Vương. Cảnh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời giưa đất trời bao la đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp mà nhân dân ta đời đời nhớ mãi.
Thánh Gióng là một người con của trời, được Ngọc Hoàng cử xuống giúp dân chống giặc. Gióng được đầu thai làm con của một gia đình nghèo khó. Từ một cậu bé lên ba không biết nói cười, Thánh Gióng bỗng chốc lớn vụt lên, trở thành dũng tướng, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi xông trận. Với sự tài giỏi của mình Gióng đã càn quét sạch quân giặc, đem lại chiến thắng vẻ vang cho quân ta. Thế nhưng sau khi chiến thắng giặc Ân Gióng liền cưỡi ngựa sắt hướng đến đỉnh núi Sóc để quay về trời. Trước khi bay về trời, Gióng lưu luyến nhìn lại quê hương lần cuối, trong lòng có chút nghẹn ngào, cảm xúc dâng trào. Có vẻ như Gióng không nỡ rời khỏi nơi này, nơi cũng đã gắn bó với cuộc sống của mình bao lâu nay, nơi có những người dân hiền lành chất phát, có những người anh em đã cùng mình kề vai sát cánh chiến đấu quân giặc. Những cơn gió thổi nhè nhè như muốn níu kéo bước chân của Gióng. Trước mắt Gióng núi Sóc hiện lên với tất cả vẻ tráng lệ và thơ mộng vốn có của nó. Không khí trong veo, nắng phủ vàng rực rỡ cả một vùng núi, lấp lánh trên những tán cây. Lúc đó cũng là lúc chiều về, màu núi cũng trở nên sẫm lại, nổi bật trên nền ráng đỏ của hoàng hôn. Núi Sóc lúc ấy trông kỳ vĩ lạ lùng. Màu tím hồng của hoa sim, màu nâu nhạt của những hàng lau sáng lên dưới nắng. Cảnh vật nhuộm một màu vàng đỏ như chính tâm trạng của Gióng lúc này. Nhưng với sứ mệnh trọng trách mà mình phải gánh vác, Gióng đã cởi bỏ giáo sắt cùng ngựa từ từ bay về trời. Trời trong xanh không gợn chút mây, cảnh vật làng quê thân thương cứ xa dần trong mắt Gióng. Từng nóc nhà, từng ngọn tre, làng quê yên bình đã nuôi dưỡng người anh hùng dân tộc giờ đây chỉ còn là những chấm nhỏ. Những lũy tre xanh, những cánh đồng lúa chín vàng, những dòng sông hiền hòa nước chảy yên bình, đàn trâu thong dong gặm cỏ, … hiện lên đầy lưu luyến trong ánh mắt của người anh hùng dân tộc. Sẽ không còn được thấy mặt nước lao xao như nhũng tấm gương khổng lồ, bóng núi lung linh, chập chờn theo từng cơn gió. Dãy núi Sóc vẫn sừng sững hiên ngang còn ghi lại dấu ấn của người anh hùng nơi đây. Đâu đó ánh mắt của người mẹ,của dân làng như muốn nhìn theo và níu kéo người con quê hương. Nhưng tất cả đã mờ đi trong mắt Gióng, chàng dũng sĩ hòa mình vào những đám mây xanh.
Thánh Gióng đã đang và sống mãi trong tâm thức dân gian, như một vị Thánh bất tử, chính vì những lẽ ấy, đến khi hoàn thành xong nhiệm vụ, Gióng đã lên núi cởi áo giáp bỏ lại rồi cùng ngựa sắt bay về trời. Đó là hình ảnh của một vị anh hùng dân tộc cũng như tuổi trẻ dù đã dành chiến thắng vinh quang nhưng không màng đến địa vị, danh vọng, coi nhẹ lợi danh. Thấy việc cần phải làm thì làm, khi làm xong thì không giàng buộc vật chất, sống an nhàn bình dị trong lòng dân tộc. Hình ảnh Gióng bay về trời cũng thể hiện ước vọng của nhân dân ta muốn có những người anh hùng cứu dân tộc, xuất phát từ tấm lòng chân thành, không vì danh lợi. Gióng bay về trời để lại cho nhân dân sự đặc sắc và bay bổng, đi thẳng vào lòng dân tộc cho muôn đời sau nhớ mãi. Từ đó trong trái tim mỗi người dân đều trào dâng niềm tự hào về quá khứ hào hùng và tình yêu quê hương đất nước tươi đẹp.
Có nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nhưng người ta vẫn mãi khắc ghi một truyền kỳ về người anh hùng ở làng Gióng, được truy phong là Phù Đổng Thiên Vương, mà nhân dân Việt Nam ta đời đời nhớ ơn.
Truyền thuyết kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, ở một ngôi làng nhỏ có hai vợ chồng nghèo, sống rất tình nghĩa, phúc đức, cuộc sống khó khăn không khiến họ mệt mỏi hay nản chí thế nhưng tuổi cả hai ngày một lớn mà mong mỏi mãi cũng không có lấy một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai vợ chồng lấy làm buồn lòng lắm, hàng xóm cũng cảm thấy xót xa cho họ. Một hôm trời nắng to, bà lão theo lệ thường ra ruộng làm cỏ, trong lúc đang cặm cụi nhổ cỏ thì bà vợ bỗng nhìn thấy một dấu chân người đặc biệt to lớn. Không biết trời xui đất khiến thế nào bà lại đưa chân mình vào ướm thử, sau chuyện ấy bà cũng quên khuấy đi, ba tháng sau bà bỗng cảm thấy người mệt mỏi, chán ăn, đến thầy lang khám bệnh thì hay tin mình có thai. Khi nghe tin cả hai vợ chồng đều rất đỗi vui mừng mà sung sướng, bởi ước nguyện bấy lâu đã trở thành hiện thực, gia đình nhỏ của hai vợ chồng dần trở nên ấm áp hơn cả, ngày ngày chờ đợi đứa con bé bỏng ra đời trong hạnh phúc. Nhưng lạ thay, đã qua chín tháng mười ngày tròn mà người vợ vẫn chưa trở dạ, hai vợ chồng lấy làm lo lắng, đợi mãi đến khi cái thai được tròn mười hai tháng, thì đứa trẻ mới chịu chui từ bụng mẹ ra. Vừa ra đời người ta đã nhận xét rằng đây là một đứa bé có tư chất hơn người, bởi vẻ thông minh sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, vợ chồng ông lão nghe thứ thì lại càng vui mừng hơn cả, đặt cho con cái tên là Gióng, cho dễ nuôi. Cuộc sống một gia đình ba người cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng lạ thay mãi đến ba tuổi Gióng vẫn chẳng biết đi biết đứng, cha mẹ đặt đâu thì em ngồi đấy, em cũng chưa hề mở miệng nói một câu nào, điều ấy làm cho hai vợ chồng sốt ruột, bồn chồn không yên vì sợ con mình có bệnh lạ.
Năm ấy, giặc n ở phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược, giày xéo mảnh đất Lạc Việt, thế giặc mạnh, vua Hùng cùng với các Lạc Hầu, Lạc Tướng rất lấy làm lo lắng. Trước tình hình ấy vua bèn nảy ra một ý, cho sứ giả truyền tin tuyển mộ người tài, đức ra giúp nước. Khi sứ giả vừa loan tin đến đầu làng, thì Gióng bỗng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây giúp con", người mẹ tuy sửng sốt nhưng vẫn chạy ra mời sứ giả vào. Vào đến nơi, sứ giả chỉ thấy một cậu bé ba tuổi và hai vợ chồng đã tuổi xế chiều, thì lấy làm tức giận, tưởng mình bị đùa giỡn, thế nhưng Gióng đã kịp lên tiếng: "Giặc đã hoành hành khá lâu, ta xin nguyện vì bệ hạ, vì non sông xung phong đánh giặc, khẩn cầu ngài về tâu với nhà vua chế tạo cho ta một chiếc roi sắt từ loại sắt tốt nhất, đảm bảo đánh trăm trận mà không gãy, ban cho ta một con chiến mã bằng sắt nặng ngàn cân và một bộ giáp sắt nặng trăm cân, giáo mác xuyên không thủng. Như thế ta có thể yên tâm diệt giặc." Sứ giả nghe thế thì lấy làm mừng rỡ vì đích thị đây là nhân trung long phượng, là bậc kỳ tài hiếm có nên mới có thể có khẩu khí hiên ngang, oai hùng của võ tướng như thế. Kể từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm gạo ăn cũng không đủ, dân làng người nhà nhà chung tay góp cơm, góp gạo cho Gióng ăn, thầm mong chàng sớm ngày đánh tan lũ giặc xâm phạm bờ cõi.
Mười ngày sau, mọi thứ mà Gióng yêu cầu đều được mang tới cả, lúc này đây từ một đứa bé ba tuổi, Gióng đã trở thành chàng trai cao lớn vượt trội, tầm vóc phi phàm, thân hình cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn. Chàng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, từ biệt quê hương và lên đường diệt giặc, trước khi đi Gióng quay lại nhìn cha mẹ "Kiếp này đa tạ phụ mẫu đã sinh dưỡng!", rồi hướng thẳng phía trước mà đi, con ngựa sắt vốn tưởng là khối sắt không có linh tính, thế nhưng lúc này đây nó lại phát ra tiếng hí vang trời, rồi phóng vụt đi, chốc lát chỉ còn lại cái bóng mờ mờ của người anh hùng, lẫn trong đám bụi thổi tung. Ngựa chạy một đường đến nơi đóng quân của giặc, ngựa đi đến đâu phun lửa đến đấy, thiêu trụi hết lương thực và lều trại của quân địch, chúng hoảng hồn bỏ cả vũ khí mà chạy thoát thân, kẻ giẫm đạp lên nhau, người thì chết dưới vó ngựa. Tráng sĩ vung roi sắt quất liên hồi vào lũ giặc cướp nước, khiến chúng chết như ngả rạ dưới vó ngựa, thế nhưng giặc quá đông, sau ba ngày chinh chiến thì không may roi sắt gãy làm đôi. Lúc này đây tráng sĩ vừa đuổi giặc đến khu vực có những lũy tre già hàng mấy chục tuổi, ngựa sắt phun lửa làm loài tre ấy trở nên vàng bóng. Nhanh trí, tráng sĩ đã dùng sức mạnh nhổ hẳn cây tre to nhất bên đường làm vũ khí thay roi sắt, kỳ diệu thay vốn chỉ là cây cỏ thế nhưng trên tay tráng sĩ, cay tre bỗng trở nên mạnh mẽ không kém gì so với những thứ vũ khí sắc bén khác. Sau bảy ngày chiến đấu, cuối cùng đất nước ta cũng sạch bóng quân thù, chỉ còn lại hàng vạn xác chết chốn sa trường, khung cảnh tiêu điều tan hoang.
Tráng sĩ sau khi diệt giặc thì thúc ngựa chạy vào rừng sâu, tìm nơi có dòng suối nguồn trong trẻo chưa ai biết đến, tắm rửa sạch sẽ, cởi bỏ lại bộ giáp sắt, như một cách báo cáo hoàn thành sứ mệnh, rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời. Vua Hùng để tưởng nhớ công ơn đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và cho xây lập đền thờ ngay tại quê nhà, để đời đời được hưởng nhang khói của nhân dân.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 6 - Là năm đầu tiên của cấp trung học cơ sở. Được sống lại những khỉ niệm như ngày nào còn lần đầu đến lớp 1, được quen bạn mới, ngôi trường mới, một tương lai mới!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247