- Quân đội: Lực lượng vũ trang được chia thành hai bộ phận cơ bản: quân bộ và quân thủy từ rất sớm, nhưng thực chất không hình thành hai binh chủng lục quân và thủy quân độc lập. Nói đến quân thủy là chủ yếu nói đến một hình thức chiến đấu đặc biệt của quân bộ - đánh bằng thuyền, có khi chỉ hành quân bằng thuyền. Tuy nhiên, tài liệu cho thấy, những chiến binh trên thuyền, nhất là những thuyền lớn thường mang tính chất chuyên nghiệp rõ rệt hơn, đông đảo hơn những chiến binh thuần túy đánh bộ.
- Vũ khí:
+ Vũ khí thời Hùng Vương khá phong phú, đa dạng. Ở giai đoạn ứng với các thời văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, các vũ khí còn rất thô sơ, chủ yếu được làm từ tre, gỗ, xương. Tới giai đoạn văn hóa Đông Sơn, lĩnh vực sản xuất và sử dụng vũ khí diễn ra sự bùng nổ thực sự, vũ khí đồng thau phát triển vượt bậc, thay thế gần như hoàn toàn vũ khí đá và xương. Tính ưu việt của vật liệu mới – đồng thau đã nhanh chóng chinh phục người Đồng Đậu, Gò Mun trong lĩnh vực chế tạo vũ khí. Bằng phương pháp đúc, những người thợ có thể chế tạo hàng loạt sản phẩm giống nhau.
+ Với kỹ thuật chế tạo và chất liệu mới, số lượng vũ khí tăng lên nhanh chóng. Người Lạc Việt đã biết sự dụng các loại vũ khí: tầm xa (cung, nỏ), tầm trung (lao), tầm gần (giáo, rìu, dao, kiếm, qua), vũ khí bảo vệ mình (hộ tâm phiến, mộc) và kết hợp các loại vũ khí đó. Trong các vũ khí đánh gần, quân đội Văn Lang thường dùng nhất là giáo, rìu và dao găm. Dấu ấn địa phương còn bộc lộ ở sự lựa chọn sử dụng các kiểu, loại khác nhau trong cùng một chủng loại vũ khí. Điều này thể hiện tính đa dạng của một nền văn hóa thống nhất thời Hùng Vương.
Đội quân thường trực Nhà nước Văn Lang chính là đội thân binh của thủ lĩnh bộ Văn Lang, đã giúp Hùng Vương áp phục 14 bộ lạc khác (các bộ sách sử Việt Nam và Lĩnh Nam chích quái đều chép rằng nước Văn Lang gồm 15 bộ, bộ Văn Lang là đô của nước Văn Lang). Sau khi đã làm chủ liên minh bộ lạc nhà nước Văn Lang, Hùng Vương đương nhiên phải duy trì dội quân thường trực này, dùng nó làm công cụ bạo lực bảo vệ chính thể non nớt của mình, chống lại mọi sự chống đối của các bộ lạc thua trận. Sự chống đối này có lẽ là không ít bằng chứng, như đã thấy, là sự gia tăng đột biến lên gấp hai, thậm chí đến ba lần giai đoạn hai của số lượng và loại hình vũ khí trong hầu hết các di tích Đông Sơn vùng sông Hồng, sông Mã. Vào thời gian này, tồn tại song song với lực lượng quân thường trực ở bộ Văn Lang - đô của Hùng Vương mà bây giờ không chỉ đóng vai trò đội quân của bộ lạc như trước, mà còn có vai trò của quân đội nhà nước trung ương, là những đội thân binh của thủ lĩnh các bộ (lạc) khác. Những đội quân này hẳn không đông. Bởi vì. thứ nhất, do phân hóa xã hội và đấu tranh giai cấp trong nội bộ xã hội không sâu sắc tầng lớp thống trị ở cả trung ương và địa phương không cần thường xuyên nắm trong tay một lực lượng quân sự quá lớn; thứ hai, đối với địa phương - các bộ (lạc) trong liên minh, nhà nước trung ương hẳn không khuyến khích, thậm chí phải ngăn chặn, hạn chế sự phát triển của chúng, đề phòng sự chống đối. Về nguyên tắc, đội quân thường trực trung ương (ở “thành Phong Châu) cũng như ở các bộ, đều được dặt dưới quyền thống lĩnh tối cao của Hùng Vương. Nhưng thực tế, lúc đầu có lẽ Hùng Vương chỉ nắm chắc được đội quân ở bộ Văn Lang của mình, quân các bộ do thủ lĩnh, các Lạc tướng nắm quyền chỉ huy, có thể dưới danh nghĩa “nhà nước” đại diện cho “nhà nước”. Khi có chiến tranh những đội quân này mới có thể được đặt dưới sự chỉ huy chung, thực sự của quân trưởng - Hùng Vương.
Dần dần, một mặt, nhờ sự liên minh giữa các bộ lạc đã đem đến những kết quả phát triển khả quan trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, mặt khác cũng nhờ vào những nỗ lực củng cố Nhà nước tập quyền của Hùng Vương: truyện Bánh Chưng ở Lĩnh Nam chích quái kể chuyện Hùng Vương nhường ngôi cho con út Lang Liêu, “anh em 21 người đều được chia giữ các nơi phiên trấn, tụ tập bộ đảng mà thành phiên quốc”. Hay trong chuyện Họ Hồng Bàng cũng nhắc tới chính sách “chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn, tướng võ”... (nghĩa là dùng người họ hàng dòng tộc trấn giữ các địa phương để dễ bề cai trị), mà liên minh các bộ (lạc) trở nên cố kết chặt chẽ, nhà nước Văn Lang ngày càng được củng cố vững vàng. Đồng thời do nhu cầu chống ngoại xâm ngày càng trở nên bức thiết, nhất là ở thời kỳ cuối (những thế kỷ IV-III Tr.CN), đội quân thường trực của nhà nước sơ khai này đương nhiên phải được gia tăng về số lượng và mở rộng thành phần. Lúc này, lực lượng vũ trang thường trực của nhà nước Văn Lang trấn giữ ở “thành Phong Châu, ngoài những trai đinh bộ Văn Lang, còn có trai đinh từ các bộ khác nữa. Trong khi đó, ở các trung tâm của từng bộ hay khu vực (như trung tâm Vinh Quang ở khu vực đồng bằng cao lưu vực sông Hồng, trung tâm Đông Sơn, Thiệu Dương ở lưu vực sông Mã...), cũng có mặt những đội quân thường trực có quy mô nhỏ hơn, thành phần binh lính có thể hẹp hơn - tuyên từ chính các trang ấp quanh vùng, đặt dưới quyền của thủ lĩnh quân sự khu vực. Đây là lực lượng rất quan trọng: khi có chiến tranh họ sẽ là những người trực tiếp lãnh đạo dân binh đánh giặc.
Các nhà nghiên cứu đã xác định cư cấu ba cấp của bộ máy chính quyền nhà nước Văn Lang. Cơ cấu tổ chức quân sự thời này cung có những cấp bậc tương đươngː
Sức mạnh của quân đội Văn Lang là sự kết hợp giữa một bên là lực lượng quân thường trực số lượng ít nhưng được trang bị vũ khí đồng thau sắc bén và có kinh nghiệm chiến đấu với một bên là lực lượng dân binh trang bị vũ khí thô sơ, không quen chiến đấu, nhưng lại có số lượng đông đảo và có thừa lòng dũng cảm và quyết tâm chống kẻ thù, bảo vệ cuộc sống và những thành quả lao động của mình. gia đình và làng xóm quê hương. Tổ chức đơn vị chiến đấu gồm đa số là dân binh với một số ít quân thường trực làm nòng cốt. có vai trò chỉ huy, hướng dẫn là tổ chức đơn vị chiến đấu phổ biến ở thời Hùng Vương. Trong thư tịch, truyền thuyết khó tìm ra hình ảnh của đội quân thường trực thiện chiến, “đánh đông dẹp bắc”, nhưng lại thường gặp những đội quân dân binh do một vài tướng tài chỉ huy. Lực lượng vũ trang Văn Lang dường như từ rất sớm đã hình thành hai bộ phận cơ bản là quân bộ và quân thủy. Về các tổ chức quân sự giai đoạn Hùng Vương dựng nước còn rất nhiều vấn đề phải bàn, phải tranh luận, nhưng riêng sự hiện diện của lính đánh bộ và lính đánh thủy thì hầu như được khẳng định rồi
Tóm lại, ở vào giai đoạn ba thời đại Hùng Vương dựng nước, tức giai đoạn hình thành Nhà nước sơ khai Văn Lang, quân đội quốc gia Văn Lang đã dần dần thành hình. Đây là một quá trình phát triển từ thấp đến cao kéo dài trong khoảng 400-500 năm, nếu không tính đến những tiền đề đã xuất hiện từ những giai đoạn trước đó. Cơ cấu tổ chức quân sự Nhà nước Văn Lang bao gồm hai thứ quân cư bản: quân thường trực và dân binh. Xu hướng phát triển chung của lực lượng vũ trang Văn Lang là ngày càng gia tăng số lượng và chất lượng đội quân chuyên nghiệp, bên cạnh đó, tiếp tục duy trì và phát triển lực lượng dân binh. Sự kết hợp, có lẽ mang tính tự nhiên, tự phát là chính giữa lực lượng dân binh có ưu thế tuyệt đối về số lượng và quân thường trực có ưu thế về vũ khí trang bị và kinh nghiệm chiến đấu, đã phát huy dược thế mạnh của cả hai thứ quân, tạo ra sức mạnh chung cho lực lượng vũ trang Văn Lang. Cơ cấu quân đội quốc gia Văn Lang tuy có phân thành hai bộ phận - quân bộ và quân thủy, nhưng thực chất không hình thành hai binh chủng lục quân và thủy quân độc lập. Nói đến quân thủy là chủ yếu nói đến một hình thức chiến dấu đặc biệt của quân bộ - đánh bằng thuyền có khi chỉ hành quân bằng thuyền và chỉ là một mảnh, một cuộc giữa trận chiến chung diễn ra chủ yếu ở trên bộ. Tuy nhiên. tài liệu cho thấy, những chiến binh trên thuyền, nhất là những thuyền lớn. thường mang tính chất chuyên nghiệp rõ rệt hơn, đông đảo hơn chiến binh chỉ thuần túy đánh bộ. Nhìn chung, trình độ quân sự - về cả tính chuyên nghiệp của đội quân thường trực, về cả vũ khí trang bị... của lực lượng vũ trang Văn Lang ở giai đoạn cuối (thế kỷ III Tr.CN) không khác lắm so với lực lượng quân đội của An Dương Vương. Sự thay thế Hùng Vương bằng An Dương Vương, nước Văn Lang thành nước Âu Lạc, chủ yếu là sự thay thế bộ máy chính quyền trung ương, còn ở cư tầng kinh tế - xã hội, thành phần dân cư dường như không có sự biến đột ngột nào. Tài liệu khao cổ học khu vực Cô Loa, từ dấu tích của ba lớp tường thành xây đắp kiên cố, cho thấy rõ điều đó. Các nhà nghiên cứu đã có lý khi gọi An Dương Vương là “Hùng Vương thứ 19”. Điều làm cho một số nhà nghiên cứu yên tâm khi nói đến lực lượng vũ trang thường trực - quân dội quốc gia ở thời nước Âu Lạc hơn ở thời nước Văn Lang, dù là ở giai đoạn cuối trước hết là sự hiện diện của di tích thành Cổ Loa, bên cạnh đó là kho mũi tên đồng Cầu Vực, là những tài nếu thư tịch và truyền thuyết đã trình bày ở trên. Sẽ rất đúng khi danh giá cao lực lượng quân đội quốc gia Âu Lạc hơn quân đội quốc gia Văn Lang, nhưng lại chưa thỏa đáng khi hạ thấp quá lực lượng quân đội thường trực của Hùng Vương 18, cho rằng ở thời Nhà nước Văn Lang, chưa ra đời một lực lượng quân sự chuyên nghiệp thực sự nào.
Tất nhiên, so với đội quân thường trực Văn Lang, thì quân dội quốc gia Âu Lạc có những bước tiến nhất định. Trước hết là ở phương diện số lượng. Theo những sách sử cổ Trung quốc như Giao Châu ngoại vực ký dẫn trong Thuỷ kinh chú, hoặc Nam Việt chí dẫn trong Cựu Đường thư, riêng đội quân kéo vào đất Văn Lang dành bại Lạc Vương, Lạc hầu đã đông tới ba vạn. Đội quân này lại nổi tiếng về tài dùng cung nỏ - tính chuyên nghiệp cao. Và cái hơn thấy rõ hơn cả là tòa thành xây kiên cố, loại hình kiến trúc quân sự thời Văn Lang chưa có. Song cũng cần tính đến yếu tố truyền thống địa phương khi so sánh trình độ phát triển nói chung, trình độ quân sự nói riêng giữa các tộc người khác nhau. Rất có thể người lạc Việt không có truyền thống xây thành đất đắp kiên cố mà chỉ dùng lũy tre, rào gỗ để “rào làng chiến đấu” hơn nữa, người Lạc Việt lại thường chọn lối “đánh du kích” bỏ ruộng vườn nhà cửa trốn vào rừng, đêm ra đánh” như Hoài Nam tử đã nhận xét chứ không thường dùng lối đánh dàn trận, giữ thành như tộc Hán ở Trung Nguyên (Trung quốc). Cách đánh của người Lạc Việt thực tế là rất hiệu quả, do vậy mà đã được dân tộc ta giữ gìn và phát huy từ đời này sang dời khác trải qua mấy nghìn năm, góp phầnvào vô vàn những thắng lợi phi thường trong lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Cái này mình chỉ tóm tắt trong cuốn đại cương Lịch Sử Việt Nam, có j bạn tham khảo tại các cửa hàng sách
Lịch sử là môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này. Những học giả viết về lịch sử được gọi là nhà sử học. Các sự kiện xảy ra trước khi được ghi chép lại được coi là thời tiền sử.
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 6 - Là năm đầu tiên của cấp trung học cơ sở. Được sống lại những khỉ niệm như ngày nào còn lần đầu đến lớp 1, được quen bạn mới, ngôi trường mới, một tương lai mới!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247