Trang chủ Ngữ văn Lớp 10 Học sinh Viết bài văn tự sự - Truyện An...

Học sinh Viết bài văn tự sự - Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy. - Tấm Cám. câu hỏi 3068315 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

Học sinh Viết bài văn tự sự - Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy. - Tấm Cám.

Lời giải 1 :

An Dương Vương là vua nước Âu Lạc, tên húy là Thục Phán. Ông cho xây dựng thành trì ở Việt Thường, nhưng mãi mà vẫn không xong. An Dương Vương bèn lập đàn tế lễ, cầu thánh thần giúp đỡ, không lâu sau thấy xuất hiện một cụ già từ phương đông tới. Người này nói rằng sẽ có sứ Thanh Giang đến giúp nhà vua xây thành. Quả nhiên, hôm sau vua ra của đông chờ đợi, thì thấy một con Rùa Vàng biết nói, tự xưng là sứ Thanh Giang. Vua vội rước về thành. Nhà vua hỏi chuyện xây thành mãi không xong, Rùa Vàng bảo có yêu quái hoành hành, phải tiêu diệt thì thành mới xây được, sau đó đó Rùa Vàng giúp An Dương Vương tiêu diệt yêu quái và xây thành.

Chỉ có hơn nửa tháng mà tòa thành nguy nga, cao hơn ngàn trượng đã xong xuôi, nó như hình trôn ốc nên người ta quen gọi là Loa thành, ngoài ra còn có tên là Côn Lôn thành hay Qủy Long Thành. Sau ba năm Rùa Vàng từ biệt nhà vua để trở phục mệnh. Trước khi đi Rùa Vàng để lại cho An Dương Vương chiếc vuốt của mình, dặn rằng lấy đó làm lẫy nỏ, ngộ nhỡ có quân xâm lược thì cứ lấy ra mà bắn, ắt đẩy lùi được. Vài năm sau, Triệu Vương là Triệu Đà đem quân sang xâm lược, nhà vua lấy nỏ thần ra bắn, quân giặc thua thảm hại, đành rút quân và xin hòa.

Tuy nhiên Triệu Đà vốn gian xảo, hắn cho con trai là Trọng Thủy cầu hôn Mị Châu. An Dương Vương thấy không có gì phải đề phòng nên đồng ý, hơn nữa còn cho Trọng Thủy được ở rể, mà không biết đó là nội gián của giặc. Trọng Thủy chung sống với Mị Châu ít lâu, chiếm được lòng tin của nàng rồi thì bắt đầu xin nàng cho xem trộm nỏ thần. Mị Châu vốn do dự, bởi đó là báu vật của đất nước, nhưng vì tin tưởng Trọng Thủy nàng vẫn lén lấy cho hắn xem. Trọng Thủy sau khi xem nỏ thần, thì lập tức làm một cái lẫy giả y hệt đánh tráo vào đó, rồi tìm cớ thăm cha để về nước. Trước khi đi Trọng Thủy nói chuyện với Mị Châu, phòng việc lỡ hai nước giao chiến, thì làm sao có thế tìm nhau. Mị Châu bảo nếu vậy thật thì nàng sẽ rắc lông ngỗng dọc đường đi để Trọng Thủy tìm đến, vợ chồng đoàn tụ.

Chỉ ít lâu sau, Triệu Đà lại lần nữa mang quân sang xâm lược, An Dương Vương cậy mình có nỏ thần, thì cứ ngồi ung dung uống trà, đánh cờ. Đến khi quân địch đã gần, vua đem nỏ ra bắn mới bàng hoàng nhận ra nỏ đã không còn tác dụng nữa. An Dương Vương vội đưa Mị Châu cùng cưỡi ngựa tháo chạy về phương Nam, trên đường đi Mị Châu chốc chốc lại bứt lông ngỗng ở áo, rải xuống đường làm dấu. Khi chạy đến biển đông, biết đã cùng đường, nhà vua đành cầu cứu Rùa Vàng, rùa nổi lên, chỉ đích danh Mị Châu là giặc. An Dương Vương quay lại nhìn con gái bằng ánh mắt căm giận và ngỡ ngàng, rút kiếm toan chém nhưng do dự, bởi suy cho cùng nguồn cơn sự việc cũng do ông mà ra. Thế rồi nhà vua vứt kiếm lại, trầm mình xuống biển tự vẫn. Về phần Mị Châu, lúc này Trọng Thủy đã đuổi tới nơi, thấy Mị Châu ôm kiếm của cha mà khóc, hắn chỉ biết đứng sững sờ. Mị Châu ngước đôi mắt đỏ hoe cùng căm phẫn nhìn Trọng Thủy mà rằng: "Ta đối với ngươi hết lòng hết dạ, nhưng ngươi lại nhẫn tâm lừa dối. Thề rằng kiếp sau nếu có gặp lại cũng chỉ có thể là kẻ thù không đội trời chung!". Rồi nàng lại hướng trời cao mà khấn: "Nay ta đã nước mất nhà tan, thân lại mang mối nhục thù khó rửa sạch. Xin ông trời làm chứng cho tấm lòng trung hiếu của ta, nếu ta chết máu của ta sẽ hóa thành châu ngọc. Còn nếu ta thực sự làm chuyện bất nghĩa thì khi chết, sẽ mãi không được siêu sinh, chịu giam cầm nơi 18 tầng địa ngục". Sau đó Mị Châu hướng biển khấu đầu ba cái, rồi cầm kiếm tự vẫn, Trọng Thủy ngăn cản không kịp, chỉ có thể ôm lấy Mị Châu đang lúc hấp hối, nàng đến chết vẫn mang nỗi hận với hắn: "Kiếp sau đừng gặp lại!", rồi buông tay nhắm mắt. Máu nàng theo bờ cát trôi xuống biển, trai ăn vào lập tức nhả ra những viên ngọc vừa tròn vừa sáng rực rỡ, đẹp khôn tả xiết. Xác của nàng cũng hóa thành khối ngọc bích tuyệt đẹp nằm gọn trong tay Trọng Thủy.

Trọng Thủy ôm khối ngọc trở về, đi như người mất hồn, hắn thấy ân hận và nhục nhã đến cùng cực, hắn nhớ lại những ngày tháng trước kia, thật hạnh phúc biết mấy. Giờ đây đã có quyền lực trong tay, nhưng hắn nào vui, hắn đã làm ra việc khốn nạn, hắn lợi dụng Mị Châu, rồi lại bức chết nàng, cuối cùng nàng đã mang theo cả nỗi hận xuống hoàng tuyền. Ngày hôm sau người ta thấy, tóc Trọng Thủy đã chuyển màu trắng xóa, hóa ngây dại, ngày ngày ôm khối ngọc của Mị Châu mà khóc bên giếng Mị Châu thường tắm, vừa khóc vừa tạ lỗi, lay lắt như vậy đến cuối đời. Nước mắt Trọng Thủy ngày ngày rơi xuống giếng, tương truyền nước giếng đó lấy rửa ngọc trai mò ở biển nơi Mị Châu chết thì ngọc sáng và đẹp hơn. Có câu đôi khi chết không phải là đau khổ nhất, mà sống trong nỗi cắn rứt, hối hận mới là tận cùng của địa ngục.

Thảo luận

Lời giải 2 :

Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy.

( Văn ở dưới)

Tấm Cám

   

Tôi tên là Tấm. Mẹ mất sớm, cha tôi ở vậy được hơn một năm thì lấy vợ kế. Dì ghẻ sinh đứa con gái, đặt tên là Cám. Khi tôi vừa tròn mười lăm tuổi thì cha tôi qua đời.

Vốn rất ghét tôi nên mọi việc lớn nhỏ trong nhà, dì ghẻ đổ cả lên đầu tôi. Chăn trâu, cấy lúa, xay thóc, giã gạo... vừa xong việc này dì bắt làm ngay việc khác; trong khi đó, Cám được rong chơi. Cậy thế mẹ, Cám thường mắng mỏ buộc tôi phải hầu hạ nó. Thui thủi một thân một mình, tôi buồn khổ lắm, nhưng chỉ biết khóc thầm.

Một hôm, dì ghẻ bảo: "Sáng nay hai đứa ra đồng mò tép. Đứa nào bắt được đầy giỏ, ta sẽ thưởng cho cái yếm đào!". Nghe lời dì nói, tôi mừng thầm và tự nhủ sẽ cố gắng hết sức để đoạt được phần thưởng quý giá mà cô gái nào cũng mơ ước.

Tôi và Cám mang giỏ cùng đi. Chẳng ngại vất vả, bẩn thỉu, tôi lội xuống ruộng, xuống mương hì hục mò, còn Cám thì cứ nhởn nhơ. Lúc mặt trời đã lên cao, giỏ của tôi đã gần đầy. Tôi rửa chân tay qua loa rồi lên bờ ngồi nghỉ. Bỗng Cám đến gần bảo: "Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng". Tưởng thật, tôi lội xuống ao gội đầu thật kĩ.

Xong xuôi, tôi vui vẻ hỏi: "Cám ơi! Em xem giùm chị đã sạch chưa?". Không một tiếng trả lời. Tôi ngẩng nhìn bốn phía, chẳng thấy Cám đâu, chỉ có chiếc giỏ của tôi nằm lăn lốc bên vệ cỏ. Tôi mở ra xem, trong giỏ rỗng không. Thì ra Cám đã lừa để trút hết giỏ tép của tôi, mang về nhà trước.

Vừa tức giận, vừa tủi thân, tôi ôm mặt khóc. Bỗng nhiên, có một giọng nói trầm ấm vang bên tai tôi: "Vì sao cháu khóc?". Tôi ngẩng lên nhìn, trước mặt tôi, Bụt hiện ra giữa một vầng hào quang lấp lánh. Tôi thuật lại đầu đuôi câu chuyện, Bụt ân cẩn bảo: "Cháu xem kĩ lại trong giỏ có còn sót con cá nào chăng!". Tôi ghé mắt nhìn vào thì thấy một con cá bống bé xíu nằm dưới đáy giỏ. Theo lời Bụt dặn, tôi đem con cá bống ấy về thả xuống giếng, mỗi ngày bớt một ít cơm để nuôi nó. Mỗi lần cho ăn, tôi lại gọi bống bằng câu Bụt dạy:

Bống bống bang bang,
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.

Bống ngoi lên mặt nước, đớp những hạt cơm mà tôi rắc xuống. Từ đó, tôi và cá bống trở thành bạn thân. Cá bống ngày một lớn lên trông thấy.

Để ý thấy tôi sau bữa cơm chiều thường ra giếng gánh nước, dì ghẻ sinh nghi, sai Cám đi rình. Cám nấp sau bụi cây, nghe tôi gọi bống bèn nhẩm theo cho thuộc rồi về kể cho mẹ nghe. Đến tối, dì ghẻ bảo tôi:

- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.

Tôi vâng lời, sáng hôm sau dẫn trâu đi ăn cỏ thật xa. Ở nhà, Cám bắt chước tôi gọi bống. Nghe đúng câu hát, bống ngoi lên thì bị dì ghẻ chực sẵn, bắt làm thịt.

Đến chiều, tôi dắt trâu về. Theo lệ thường, ăn xong tôi lại giấu cơm trong thùng gánh nước đem ra cho bống. Tôi gọi mãi, gọi mãi mà chẳng thấy bống đâu. Chỉ có một cục máu đỏ tươi nổi lên mặt nước.

Tôi òa khóc. Bụt hiện lên hỏi: "Làm sao con khóc?". Tôi kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo: "Con bống của con đã bị người ta ăn thịt mất rồi. Thôi, con hãy nín đi rồi tìm nhặt lấy xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn dưới bốn chân giường con nằm".

Tôi tìm khắp xó vườn, góc sân mà không thấy gì cả. Tự nhiên, một con gà cất tiếng: "Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!". Tôi lấy nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bới đống tro bếp một lúc thì tìm thấy xương bống. Tôi nhặt bỏ vào bốn chiếc lọ nhỏ, chôn dưới bốn chân giường đúng như lời Bụt dặn.

Tết đến, xuân về, nhà vua mở hội trong mấy ngày đêm. Già trẻ, trai gái nô nức đi xem hội. Mọi người ăn mặc đẹp đẽ, dập dìu tuôn về kinh thành như nước chảy. Mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo mớ ba mớ bảy, háo hức đi trẩy hội.

Thấy tôi cũng muốn đi, dì ghẻ hấm hứ nguýt dài. Chẳng biết nghĩ sao, dì lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc rồi bảo: "Mày hãy nhặt cho xong chỗ gạo này rồi đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở. Tao về mà không có gạo thổi cơm là tao đánh đó!".

Nói xong, hai mẹ con Cám đi xem hội. Tôi ngồi nhặt một hồi lâu mà chỉ được chút ít, sốt ruột nghĩ nhặt thế này thì biết bao giờ cho xong? Biết dì ghẻ độc ác không muốn cho đi xem hội, tôi tủi thân, bật khóc nức nở. Bụt lại hiện ra hỏi: "Vì sao con khóc?". Tôi chỉ vào cái thúng đựng thóc trộn lẫn gạo rồi kể sự tình. Bụt bảo tôi mang thúng ra đặt giữa sân rồi sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp. Tôi sợ chim ăn mất thì Bụt dạy:

- Con cứ bảo chúng nó thế này: "Rặt rặt xuống nhặt cho tao. Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết". Chúng sẽ không ăn của con đâu!

Thoáng chốc, đàn chim sẻ đã nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, không mất một hạt. Nhưng khi chúng đã bay đi rồi, tôi chợt nghĩ mình làm gì có quần áo đẹp mà đi xem hội?! Tủi thân tủi phận, tôi lại rơi nước mắt. Bụt bảo tôi hãy đào bốn chiếc lọ đựng xương bống ở dưới chân giường lên, sẽ có đủ. Tôi làm đúng theo lời Bụt, quả nhiên điều kì lạ đã xảy ra: Lọ thứ nhất có một bộ áo mớ ba và một cái váy lụa, một yếm lụa đào và chiếc khăn nhiễu. Lọ thứ hai có một đôi hài thêu, đỉ vừa như in. Lọ thứ ba có một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt xuống đất thì nó hí vang, to bằng con ngựa thật. Lọ cuối cùng có một bộ yên cương xinh xắn.

Tôi mừng rỡ vô cùng, vội cảm tạ Bụt rồi tắm rửa sạch sẽ, mặc bộ quần áo đẹp vào và cưỡi lên lưng ngựa. Ngựa phi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến kinh đô. Lúc ngựa phóng qua chỗ lội, tôi đánh rơi một chiếc hài xuống nước, không kịp nhặt lên. Đến đám hội, tôi dừng ngựa, lấy khăn gói kĩ chiếc hài còn lại rồi chen vào biển người.

Kiệu vàng của nhà vua vừa đến chỗ lội thì hai con voi dẫn đầu không chịu đi, cứ cắm ngà xuống đất và kêu rống lên. Biết có sự lạ, nhà vua sai quân lính thử tìm xem. Họ nhặt được chiếc hài thêu của tôi, vội trình nhà vua. Nhà vua cầm chiếc hài lên, ngắm nghía mãi rồi buột miệng khen: "Chiếc hài xinh quá! Người đi hài này hẳn phải là một trang tuyệt sắc!".

Vua ra lệnh cho tất cả đàn bà, con gái thử hài và tuyên bố ai đi vừa thì sẽ cưới làm hoàng hậu. Đám hội lại càng náo nhiệt. Các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử hài nhưng không ai đi vừa. Mẹ con Cám cũng vào cầu may. Lúc tôi bước ra thử, nhìn thấy tôi, Cám liền mách mẹ nhưng dì ghẻ không tin, bĩu môi nói: "Con nỡm! Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!".

Tôi là người thử cuối cùng. Chân tôi đặt vào hài vừa như in. Tôi mở khăn lấy chiếc hài còn lại đi vào. Hai chiếc giống nhau như đúc. Lính hầu hò reo, vui mừng báo với vua. Lập tức, vua sai đoàn thị nữ rước tôi về cung. Tôi bước lên kiệu trước vẻ mặt ngơ ngác và hằn học của mẹ con Cám.

Tôi được sống sung sướng, hạnh phúc bên nhà vua trẻ. Đến ngày giỗ cha, tôi xin phép về giúp dì và em sửa soạn cỗ cúng. Thấy tôi được làm hoàng hậu, hai người ghen ghét nhưng cố giấu. Dì bảo tôi trèo cau, lấy một buồng để cúng cha. Tôi vừa leo lên đến ngọn thì dì chặt gốc. Cau đổ, tôi ngã xuống ao chết đuối. Dì ghẻ lấy quần áo của tôi cho Cám mặc rồi đưa vào cung nói dối vua rằng tôi chẳng may đã chết, nay cho em gái thay thế.

Hồn tôi biến thành chim vàng anh, suốt ngày quanh quẩn ở vườn ngự uyển. Cám giặt áo cho vua, đem ra phơi ở bờ rào, tôi hót: "Phơi áo chổng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao!". Rồi tôi bay thẳng vào cung, đậu ở cửa sổ. Nhà vua đang ủ ê, buồn bã, chắc là nhớ thương người vợ bạc mệnh. Thấy tôi cứ quanh quẩn bên cạnh, nhà vua bảo: "Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo!". Tôi âu yếm đậu lên vai rồi rúc vào tay áo nhà vua. Một chiếc lông được làm bằng vàng cho tôi ở. Nhà vua suốt ngày quấn quýt bên tôi, chẳng hỏi han gì đến Cám.

Nhân lúc nhà vua đi vắng, mẹ con Cám bắt tôi làm thịt rồi vứt lông ra vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi thì Cám đặt điều nói dối: "Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết ăn thịt mất rồi". Nhà vua giận lắm nhưng không nói gì. Ngày hôm sau, từ đám lông chim mọc lên hai cây xoan đào thật đẹp. Khi nhà vua đi dạo trong vườn, cây xòe cành lá che đầu vua, giống như hai cái lọng. Vua thấy vậy sai lính hầu mắc võng vào giữa hai thân cây rồi chiều chiều ra nằm đong đưa hóng mát.

Cám lại đem chuyện ấy mách mẹ. Nhân một hôm gió bão, dì ghẻ xúi nó sai thợ chặt hai cây xoan đào rồi nói là đóng khung cửi để dệt áo cho vua. Hồn tôi nhập vào khung cửi nên mỗi lần Cám ngồi vào dệt, khung cửi lại phát ra tiếng kêu đầy đe dọa:

Cót ca cót két,
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra!

Cám hoảng hổn mách với mẹ, dì ghẻ bảo hãy đốt khung cửi thành tro rồi đem đổ thật xa. Cám làm theo, nhưng từ đống tro bỗng mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xanh tươi. Đến mùa, cây thị ra nhiều hoa mà chỉ đậu có mỗi một quả. Hồn tôi náu trong quả thị vàng thơm ấy.

Một hôm, bà lão hàng nước ở gần đấy đi ngang qua, ngửi thấy mùi thơm bèn ngẩng lên nhìn rồi giơ miệng bị ra, lẩm bẩm:

- Thị ơi thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.

Trái thị liền rụng xuống. Bà lão vui mừng mang về cất vào buồng, thỉnh thoảng lại đem ra ngắm nghía. Những lúc bà lão đi chợ hoặc vắng nhà, tôi từ quả thị bước ra, dọn dẹp nhà cửa, nấu sẵn cơm dẻo canh ngon cho bà lão.

Bà lão lấy làm lạ, cố ý tìm ra sự thật. Một lần, vờ đi chợ được một lúc thì bà lão quay lại. Tôi đang lúi húi làm việc nhà như mọi khi thì bà lão bước vào, ôm chầm lấy tôi rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, bà lão coi tôi như con gái. Tôi giúp bà gói bánh, nấu nước, têm trầu để bà ngồi bán hàng.

Ít lâu sau, một hôm có người đàn ông trẻ tuổi ghé vào quán nước. Nhìn thấy mấy miếng trầu cánh phượng, người ấy hỏi ai têm, bà lão đáp là con gái mình têm. Tôi đứng nép sau bức mành, nghe rõ câu chuyện và nhận ra nhà vua. Nhà vua năn nỉ bà lão đưa con gái ra cho mình xem mặt. Tôi vừa xuất hiện, nhà vua đã nhận ra ngay, bèn bảo bà lão thuật lại sự tình, rồi ra lệnh cho lính hầu mang kiệu rước tôi về cung.

Mẹ con Cám thấy vậy thì hết sức sợ hãi. Cám hỏi tôi làm thế nào để trẻ đẹp được như thế, tôi bảo muốn đẹp thì tôi sẽ giúp. Tôi sai quân hầu nấu một nổi nước sôi, rồi bảo Cám đứng xuống hố. Cám bằng lòng. Lính đổ nước sôi vào hố, Cám chết nhăn răng. Dì ghẻ thấy vậy kinh hoàng, cũng lăn đùng ra mà chết. Tôi được sống yên ổn hạnh phúc bên nhà vua. Tình cảm vợ chồng lại càng thắm thiết, mặn nồng hơn trước.

image
image
image

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247