Khổ 1 :
Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ miêu tả về mùa xuân rất đặc sắc và có ý nghĩa. Đặc biệt trong đoạn đầu tiên của bài thơ càng cho chúng ta thấy được mùa xuân hòa vào trong lòng người đọc rất rõ nét và sâu sắc. Mùa xuân được xem là khoảng thời gian đẹp nhất trong năm cho nên nói đến mùa xuân là dường như chúng ta cảm thấy yêu đời hẳn lên, có lẽ chính vì vậy mà mùa xuân trở thành một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Mở đầu bài thơ, tác giả đã phác họa lên một bức tranh mùa xuân trước mắt chúng ta giữa khung cảnh thiên nhiên và đất trời, vũ trụ: "Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi! Con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời..." Khung cảnh mùa xuân dần dần được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Ở đây, mùa xuân của Thanh Hải đến với ta không rực rỡ kiêu sa với cánh đào Hà Nội, với những nụ mai vàng đang phô trương sắc thắm, mà chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như lọc. Cánh hoa nghiêng mình xuống mặt nước tựa như gương ấy để nổi bật lên trên một khung trời được in bóng dưới lòng sông, với màu sắc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương, Thanh Hải đã tạo nên cho bức tranh mùa xuân của mình một nét gì đó vô cùng độc đáo. Và bức tranh ấy lại càng được đẹp hơn, có “hồn” khi cái màu tím kia được nhà thơ tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc chúng ta có thể hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, nhưng dường như cũng có đủ khả náng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống. Cái màu tím ấy lan ra, chơi vơi, và khẽ lay động theo những ngọn gió xuân đang thổi lên từ lòng sông xanh mát rượi. Cảnh vật mùa xuân trong bài thơ có lẽ cũng bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng như vùng đất miền Trung quê hương tác giả. Xứ Huế vốn nổi tiếng mộng mơ với núi Ngự sông Hương, với những điệu hò mái nhì mái đẩy, giờ lại càng thêm xinh đẹp dưới ngòi bút tô vẽ của nhà thơ... Không gian của mùa xuân được mở rộng theo chiều cao, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe tiếng chim chiền chiện hót trên bầu trời trong trẻo. Từ "ơi" nằm ở đầu dòng thơ là tiếng gọi ngọt ngào xúc động biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe âm thanh của tiếng chim. Tiếng chim chiền chiện hót gọi xuân về hay tiếng lòng náo nức của người dân xứ Huế của người dân đất Việt trước xuân sang. Tiếng chim ngân vang rung động đất trời đem niềm vui hân hoan trong lòng người.
Khổ 2:
"Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng" Hai câu đầu tác giả nhấn mạnh đến mùa xuân chiến đấu, mùa xuân của "người cầm súng" với "Lộc giắt đầy quanh lưng". "Lộc" có nghĩa đen là môt chồi xanh, non tơ, biểu tượng sức sống khi mùa xuân đến. Ở đây, từ "lộc" biểu hiện cho một niềm tin, một thành quả đo cách mạng đem lại, là kết quả. Người chiến sĩ với "Lộc giắt đầy quanh lưng" khi ra chiến trường với một mong muốn cao nhất là phải chiến thắng quân thù.
"Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ". Với mùa xuân của những người lao động sản xuất thì từ "lộc" tượng trưng cho sự ấm no, hạnh phúc, tượng trưng cho sự "trúng mùa" của công việc sản xuất. Mọi người dân lao động đều mong muốn mình phải cống hiến sức lực, tài năng, để lao động xây dựng quê hương và bảo vệ Tổ quốc.
Trong khổ thơ này, "mùa xuân chiến đấu" đối xứng với "mùa xuân sản xuất", "người chiến sĩ' đối xứng với "người lao động sản xuất", tác giả đã nêu bật nhiệm vụ hàng đầu của đất nước ta lúc bấy giờ là phải vừa chiến đấu bảo vệ đất nước, vừa phải ngày đêm lao động sản xuất, xây dựng quê hương sau chiến tranh, góp phần làm cho Tổ quốc giàu mạnh. Bởi vậy, mọi người đều tự giác, tự nguyện:
"Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao" Câu thơ giản dị, điệp ngữ "tất cả như diễn tả sự thống nhất trong suy nghĩ và hành động. Từ "xôn xao" vừa gợi tả vừa gợi thanh – âm thanh nhỏ mà có chiều sâu của cuộc sống đang phát triển, đang reo vui. Lời thơ nhỏ nhẹ, chứa chất suy tư tha thiết chân thành mà vẫn sâu lắng.
Khổ 3:
Thanh Hải sáng tác bài thơ Mùa xuân nho nhỏ giữa mùa đông rét buốt, lúc tác giả đang nằm trên giường bệnh không bao lâu trước khi qua đời. Cả bài thơ là niềm cảm xúc chân thành của nhà thơ trước những vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người khi vào xuân của những tâm niệm, ước vọng của nhà thơ trước vẻ đẹp ấy.
Các khổ thơ trên thông qua thể thơ 5 chữ nhịp nhàng, gợi cảm thể hiện niềm tin tự hào của nhà thơ về truyền thống dựng nước, giữ nước oai hung của cha ông cùng tâm tư khát vọng cống hiến cho quê hương đất nước của thi nhân. Niềm tự hào của thi nhân về truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc thể hiện sâu sắc qua những hình ảnh thơ đặc sắc:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Khổ thơ ngắn gọn chỉ có 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu. Có cụm từ “bốn ngàn năm” đặt sau từ “đất nước” thể hiên niềm tự hào thật sâu sắc của nhà thơ về truyền thống dựng nước, giữ nước cùng truyền thống văn hóa thật lâu đời trên quê hương đất nước thân yêu này.
Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam:
“Sốngvững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.
(Huy Cận)
Đất nước 4000 năm vững chãi như thành đồng. Dù có những lúc “vất vả và gian lao” nhưng chưa bao giờ chịu khuất phục. Ý thơ cụ thể ấy cũng gợi lại khí thế đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt tổ tiên dân tộc ta từ khi dựng nước đến nay.
Hình ảnh thơ đã tái hiện cụ thể cuộc đấu tranh của Hai Bà Trưng đuổi giữa quân tướng Tô Định ra khởi bờ cõi. Ý thơ cũng đã gợi nhớ các trận chiến oai hung giữa quân dân Đại Việt thời Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Tống, quân Hán, quân Tống, Nguyên Minh, Thanh…giành lại nền hòa bình độc lập dân tộc.
4000 năm dựng nước, giữ nước đó còn có công lao của Bác Hồ, của cách mạng của Đảng Cộng Sản, của toàn dân ta trước âm mưu xâm lược mà thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mĩ đã thực hiện trên đất nước thân yêu này ở đầu thế kỷ 20 vừa qua. Câu thơ còn gợi ta nhớ lại bản Tuyên ngôn độc lập thật mạnh mẽ của Lý Thường Kiệt trên dòng sông Như Nguyệt trong cuộc chiếm chống quân Tống xâm lược:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư”.
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Có sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đnahs tơi bời”.
Câu thơ cũng gợi nhớ những lời khẳng định thật hào hùng của Nguyễn Trãi trong bài “Bình Ngô Đại Cáo”
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác”.
Đọc câu thơ nhớ lại những truyền thống dựng nước, giữ nước thật hào hùng của dân tộc ta nhân tộc ta nhận thấy niềm tự hào mà nhà thơ Thanh Hải thể hiện trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, rất thực rất chân thành và đầy ý nghĩa. Bởi vì, để có 4000 năm văn hiến dân tộc ta dã phải trải qua bao: “vất vả và gian lao”
Ngôn ngữ mộc mcj, giản dị như củ khoai, hạt lúa mà chất chứa bao ý nghĩa sâu xa đã góp phần tái nhiện hành trình lịch sử dân tộc với bao nhọc nhằn, gian khổ, bao mất mát hi sinh trong những năm tháng chiến đấu chống ngoại xâm:
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi Khôi Huyện quân không một đội”.
(trích “ Bình Ngô Đại cáo” của Nguyễn Trãi)
Hay khi:
“Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non”.
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Và những ngày đầu kháng chiến còn vô cùng khó khăn, thiếu thốn nhưng vẫn không hề sờn lòng, chùng bước:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
(Đồng chí – Chính Hữu)
Gian lao, vất vả là thế! Vậy mà đất nước Việt Nam thân yêu này vẫn đẹp vẫn tươi sáng, vẫn bền vững và “luôn tiến về phía trước:
“Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”.
Câu thơ giúp người đọc chúng ta hình dung những bước chân mạnh mẽ, vững chắc của dân tộc, trong quá trình dựng nước, giữ nước. Quá trình ấy đã làm nên lịch sử thật vẻ vang, thật đáng tự hào như chính lòng tự hào cao độ của nhà thơ.
Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà. Sao là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ. Đất nước đang hướng về một tương lai tươi sáng. Ta cảm nhận được niềm tin tưởng của tác giả vào tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần.
Khổ thơ kết thúc trong tư thế tự tin chiến thắng, trong niềm tự hào lớn lao về truyền thống vẻ vang, anh hùng, bất khuất của đất nước. Ý thơ truyền cho ta sức mạnh và thêm tin tưởng vào tương lai của dân tộc. Thêm một lần nữa, hình ảnh đất nước được tạc nên bằng nghệ thuật ngôn từ đặc sắc trong tình yêu thương vô hạn của nhà thơ.
Khổ 4:
Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:
“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”
Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”.
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Mở đầu khổ thơ, tác giả đã khiến người đọc có cảm giác nôn nao khi mùa xuân sắp đến. Thanh Hải đã vẻ nên bức tranh xuân muôn màu muôn vẻ của “dòng sông xanh”,” bông hoa tím biếc”, cùng với âm thanh của tiếng “chim chiền chiện”, “hót vang trời”. Hình ảnh chú chim chiền chiện báo tin xuân trong bài thơ của Thanh Hải quá đỗi tươi vui và thơ mộng, không kém gì sắc xuân trong Truyện Kiếu của Đại thi Hào Nguyễn Du:
”Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.
Chính tiếng hót trong veo những chú chim đại diện cho mùa xuân bay lượn rợp trời đã khiến cho lòng người cũng trở nên phơi phới, rạo rực. Từ ngữ cảm thán “ơi” của tác giả làm người đọc cảm thấy như Thanh Hải đang tha thiết gọi cánh chim ấy đến gần ông hơn nữa, để tác giả có thể tận hưởng trọn niềm vui trong những ngày xứ Huế và cả Đất nước sắp vào xuân.
Mùa xuân yên vui, mùa xuân của hòa bình, mùa xuân khởi đầu cho sự sống mới của nhân dân, của Đất nước. Đồng thời, câu hỏi cảm thán của nha thơ dành cho chú chim cũng khiến người nghe cảm thấy thật xúc động, nhưng cũng thật thú vị “Hót chi mà vang trời”.
Có lẽ, trong lòng tác giả cũng đang nôn nao và cảm thấy phấn khích với tiếng chim thánh thót, tha thiết và tươi vui ấy. Câu thơ như tiếng reo vui đầy thích thú của tác giả, tưởng chừng như ông cũng đang hòa mình mà nói cười vùng với cánh chim bay trên bầu trời cao rộng kia. Hình ảnh chú chim chiền chiện dễ thương, trong trẻo ấy cũng xuất hiện trong bài thơ Con chim chiền chiện của nhà thơ Huy Cận:
Con chim chiền chiện
Hồn xanh quê nhà
Sáng nay lại hót
Tưng bừng lòng ta.
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Tác giả Thanh Hải đã cảm nhận trọn vẹn hương sắc của mùa xuân bằng tất cả tâm hồn và sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, của đời người. Nếu như tác giả háo hức nhìn cánh chim bay trên bầu trời cao, thấy bông hoa tím trên dòng sông xanh, thì bây giờ lại dùng các giác quan để đón từng “giọt” sương sớm đang “long lanh rơi” xuống thật tinh khiết và tràn đầy nhựa sống.
“Tôi đưa tay tôi hứng”- cử chỉ tuy bình dị của nhà thơ nhưng lại bật lên mọi giác quan, gợi cảm đến lạ. Đó chính là nét đặc sắc trong thơ của Thanh Hải với tài hoa chuyển đổi từ thính giác và thị giác sang xúc giác. Chỉ bằng những lời thơ giản đơn, từ ngữ dung dị, mà tác giả đã vẽ lên một khung cảnh xuân với đầy đủ sắc thái tuyệt vời và chân thật nhất.
Hai từ “tôi hứng” đã thể hiện sự trân trọng và toát lên cái tôi trữ tình của tác giả trước hình ảnh mùa xuân rạng rỡ, đầy đủ sắc màu và âm thanh của xứ Huế mộng mơ, nơi đã đi vào những bài thơ và những khúc ca muôn thuở.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247