Trang chủ Lịch Sử Lớp 10 Lớp 10 ko có an ninh quốc phòng nên mình...

Lớp 10 ko có an ninh quốc phòng nên mình hỏi trong phần lịch sử mong mọi người giúp minh

Câu hỏi :

Lớp 10 ko có an ninh quốc phòng nên mình hỏi trong phần lịch sử mong mọi người giúp minh 1.Trình bày quá trình hình thành,xây dựng và trưởng thành của quân đội nhân dân vn 2.Trình bày quá trình,xây dựng của công an nhân dân vn 3.nêu truyền thuyết thống vẻ vang của quân đội nhân dân vn 4.nêu truyền thống vẻ vang công dân vn

Lời giải 1 :

câu 1:

Tháng 12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Chỉ thị nhấn mạnh: "Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị quan trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền..., đồng thời nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc..." 
Ngày 22-12-1944, tại khu rừng thuộc huyện Nguyên Bình (Cao Bằng), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã chính thức làm lễ thành lập, gồm 3 tiểu đội với 34 chiến sĩ được lựa chọn từ những chiến sĩ Cao-Bắc-Lạng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. 
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng, đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm chính trị viên, đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách kế hoạch-Tình báo, đồng chí Vân Tiên (Lộc Văn Lùng) quản lý. Đội có chi bộ Đảng lãnh đạo... 
Chỉ có 34 người, với 34 khẩu súng các loại nhưng đó là những chiến sĩ kiên quyết, dũng cảm trong các đội du kích Cao-Bắc-Lạng, Cứu quốc quân... là con em các tầng lớp nhân dân bị áp bức, họ có lòng yêu nước, chí căm thù địch rất cao, đã siết chặt họ thành một khối vững chắc, không kẻ thù nào phá vỡ nổi. Sau lễ thành lập, đội tổ chức một bữa cơm nhạt không rau, không muối để nêu cao tinh thần gian khổ của các chiến sĩ cách mạng, đội tổ chức “đêm du kích” liên hoan với đồng bào địa phương để thắt chặt tình đoàn kết quân dân. 
Chấp hành chỉ thị “phải đánh thắng trận đầu”, ngay sau ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt (17 giờ chiều 25-12-1944) và liền sáng hôm sau (7 giờ sáng 26-12-1944) đột nhập đồn Nà Ngần, tiêu diệt gọn 2 đồn địch, giết chết 2 tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. 
Hai trận đánh đồn Phai Khắt, Nà Ngần thắng lợi đã mở đầu truyền thống đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu của quân đội ta suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn. 
Từ ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân luôn phát triển và trưởng thành. Ngày 22-12-1944 được xác định là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của một tổ chức quân sự mới của dân tộc ta. Một quân đội của dân, do dân, vì dân; luôn gắn bó máu thịt với dân, luôn luôn được dân tin yêu, đùm bọc. 
Lịch sử chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của quân đội ta gắn liền với lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc. Một đội quân được Đảng và Bác Hồ rèn luyện, đã từng là những đội tự vệ đỏ trong cao trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh, đội du kích Bắc Sơn, Nam Kỳ, Ba Tơ, Cao Bắc Lạng, Cứu quốc quân đến Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. 
Một quân đội lớp lớp cán bộ, chiến sĩ đã nối tiếp nhau bao thế hệ cầm súng chiến đấu, cùng toàn dân đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược hung bạo, giành lại độc lập thống nhất và bảo vệ vững chắc bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam XHCN và làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng hai nước Lào và Cam-pu-chia anh em. 
Chính vì vậy, năm 1989, theo chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng và quyết định của Chính phủ, ngày 22-12 hàng năm không chỉ là ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam mà còn là ngày Hội quốc phòng toàn dân. Từ đó, mỗi năm, cứ đến ngày này, toàn dân Việt Nam lại tiến hành các hoạt động hướng vào chủ đề quốc phòng và quân đội, nhằm tuyên truyền sâu rộng truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, giáo dục lòng yêu nước, yêu CNXH, động viên mọi công dân chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Các hoạt động như mít tinh, hội thảo, hội nghị đoàn kết quân dân, giáo dục truyền thống, biểu diễn văn nghệ, đại hội thanh niên, thi đấu thể thao, hội thao quân sự... được diễn ra ở khắp làng, xã, cơ quan đoàn thể, cơ sở đơn vị... 
Những hoạt động của ngày hội như vậy nhằm động viên cán bộ, chiến sĩ không ngừng nâng cao cảnh giác, ra sức rèn luyện bản lĩnh chính trị và trình độ quân sự, không ngại gian khổ, vượt qua khó khăn, trong mọi hoàn cảnh của trước đây cũng như hôm nay, để hoàn thành mọi nhiệm vụ xứng đáng với tên gọi: Quân đội nhân dân Việt Nam.

câu 2:

Trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), “Đội Tự vệ đỏ” được thành lập để hỗ trợ và bảo vệ quần chúng nổi dậy phá nhà giam, đốt huyện đường, vây đồn lính, bắt giữ bọn hào lý, làm tan rã từng mảng chính quyền tay sai của đế quốc ở cơ sở; bảo vệ cán bộ; bảo vệ các phiên tòa của Xô Viết - Công Nông xét xử bọn phản cách mạng; giữ gìn an ninh trật tự ở những nơi có chính quyền Xô Viết.

Tháng 3/1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất thông qua Nghị quyết quan trọng về “Đội Tự vệ”. Khi cuộc vận động mặt trận Dân chủ Đông Dương phát triển thành cao trào cách mạng rộng lớn, Đảng chỉ thị: “Mỗi ấp phải tổ chức ra Đội Tự vệ để ngăn cản những kẻ phá rối cuộc đấu tranh và đối phó với các lực lượng phản động”.

Đầu năm 1940, Trung ương Đảng chủ trương thành lập “Ban Công tác đội” làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn khu (ATK), bảo vệ cán bộ cao cấp của Đảng, giải thoát cho cán bộ khi bị địch bắt. “Ban Công tác đội” được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương, được trang bị vũ khí và huấn luyện về kỹ thuật chiến đấu.

Ngày 15/5/1945, Xứ ủy Bắc kỳ thành lập “Đội danh dự trừ gian” do Xứ ủy trực tiếp chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ diệt trừ bọn Việt gian đầu sỏ và vũ trang tuyên truyền, chiến đấu khi cần thiết.

Ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh tuyên bố thành lập khu giải phóng; đồng thời, công bố 10 chính sách lớn của Việt Minh.

Ngay sau đó, các tổ chức “Đội trinh sát”, “Đội Hộ lương diệt ác” lần lượt ra đời cùng với “Đội Tự vệ đỏ”, “Ban Công tác đội” và “Đội Danh dự trừ gian” làm nhiệm vụ thủ tiêu lực lượng của phát xít Nhật, trừ khử bọn Việt gian, trừng trị bọn lưu manh, bảo vệ chính quyền cách mạng, thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đây chính là các tổ chức tiền thân của Công an nhân dân Việt Nam.

Ngày 19/8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội và các tỉnh ở Bắc Bộ. Cùng với việc đập tan các cơ quan đàn áp của địch và thiết lập chính quyền cách mạng, ở các tỉnh Bắc Bộ đã lập Sở Liêm phóng, Trung Bộ lập Sở Trinh sát, Nam Bộ lập Quốc gia tự vệ cuộc.

Tuy tên gọi ở ba miền khác nhau, nhưng các tổ chức đầu tiên của Công an nhân dân đều có chung nhiệm vụ trấn áp phản cách mạng, giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.

Từ đó đến nay, ngày 19/8/1945 trở thành Ngày truyền thống của Công an nhân dân Việt Nam.

Ngày 12/12/2005, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Lệnh số 30/2005/L-CTN công bố Luật Công an nhân dân, trong đó quy định: Ngày 19 tháng 8 hằng năm là Ngày truyền thống của Công an nhân dân và là ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Từ đó đến nay, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam ngày càng được củng cố về mặt tổ chức và lớn mạnh không ngừng, đủ sức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong các thời kỳ cách mạng.

câu 3:

Kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập QĐNDVN (22/12/1944 - 22/12/2019), là dịp để các thế hệ dân tộc Việt ôn lại truyền thống vẻ vang của dân tộc, truyền thống chiến đấu, những chiến công oanh liệt của quân, dân ta và chiến thắng vẻ vang của QĐNDVN trong chiến đấu, xây dựng và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, là những chiến công mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như những biểu tượng sáng ngời về một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ, quân đội ta đã xây đắp, phấn đấu liên tục, không ngừng giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, làm nên những truyền thống cao đẹp, xứng đáng là “Bộ đội Cụ Hồ”.

Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), các tổ chức vũ trang được hình thành, phát triển rộng khắp và trưởng thành, đòi hỏi phong trào đấu tranh cách mạng lúc này phải có một đội quân chủ lực thống nhất về mặt tổ chức, vững mạnh về ý chí để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc. Đứng trước yêu cầu thực tiễn của cách mạng, tháng 12/1944 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (Đội VNTTGPQ) và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Sau một thời gian chuẩn bị, chiều ngày 22/12/1944, giữa lòng chiến khu Việt Bắc tại khu rừng giữa tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội VNTTGPQ (tiền thân của QĐNDVN ngày nay) được thành lập theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Võ Nguyên Giáp được Bác Hồ giao làm Tổng chỉ huy.

Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Trong một tháng phải có hoạt động. Trận đầu nhất định phải thắng lợi”, ngay sau 3 ngày thành lập Đội VNTTGPQ vào lúc 17 giờ ngày 25/12/1944 Đội đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt (đóng tại tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình); 7 giờ sáng 26/12/1944 tiếp tục đột nhập đồn Nà Ngần (đóng tại xã Cẩm Lý, châu Nguyên Bình) giết chết hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch và thu tất cả vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần đã mở đầu cho truyền thống đánh chắc thắng, đánh thắng ngay trận đầu của quân đội ta.

Tháng 3/1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng và ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các LLVT cả nước (VNTTGPQ, Cứu Quốc quân và các tổ chức vũ trang khác...) thành Việt Nam Giải phóng quân (VNGPQ). Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, phong trào vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần đã giành thắng lợi ở nhiều nơi. Ngày 15/5/1944 đồng chí Võ Nguyên Giáp trở thành Tư lệnh các LLVT thống nhất, mang tên VNGPQ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và trên cơ sở đánh giá thời cơ, cũng như tình hình cách mạng trong nước, LLVT cùng các tầng lớp nhân dân đồng loạt đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, VNGPQ được đổi tên thành Vệ Quốc quân. Đến năm 1950, đổi tên thành QĐNDVN. Và ngày 22/12/1944, ngày thành lập Đội VNTTGPQ - Đội quân chủ lực đầu tiên của QĐNDVN được lấy làm Ngày thành lập QĐNDVN.

 Năm 1953 - 1954, cùng toàn dân giành thắng lợi trong cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ; trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về “đình chỉ chiến sự ở Việt Nam”, lập lại hòa bình ở Đông Dương, kết thức thắng lợi cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ,... Từ năm 1954-1960, QĐNDVN từng bước xây dựng, phát triển, trưởng thành, tiến lên chính quy, hiện đại; xây dựng, bảo vệ miền Bắc XHCN; giữ gìn, phát triển LLVT cách mạng ở miền Nam. Giai đoạn này Đảng ta xác định đó là “trụ cột bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình”, quân đội ta nhanh chóng xây dựng theo kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1955-1960). Ở miền Nam, tháng 6/1954 Mỹ dựng chính phủ Ngô Đình Diệm và ráo riết thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo, gây ra những tổn thất nặng nề cho cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó, tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) mở rộng, đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và vạch rõ con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng. Ngày 28/8/1959 nhân dân nhiều xã trong huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) nổi dậy giành chính quyền. Ngày 17/1/1960 nhân dân huyện Mỏ Cày, Minh Tân, Thạnh Phú (Bến Tre) đồng loạt nổi dậy, phá thế kềm kẹp, tạo nên phong trào "Đồng khởi" lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam Bộ, Khu 5. Từ phong trào “Đồng Khởi”, LLVT và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp của ta từng bước hình thành. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ngày 15/2/1961, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, bộ phận trực tiếp của QĐNDVN thực hiện nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam. Từ năm 1961-1965, đẩy mạnh xây dựng quân đội chính quy, hiện đại, cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta bước sang một giai đoạn mới.

 Từ năm 1965-1968, QĐNDVN vừa xây dựng, vừa chiến đấu và phát triển lực lượng, bộ đội ta trên các chiến trường miền Nam đã tổ chức các trận tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - quân đội Sài Gòn, mở ra phong trào “tìm Mỹ mà diệt”, “nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”, đánh bại kế hoạch hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” của địch, tạo điều kiện đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phát triển lên một bước mới, làm thất bại “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Ở miền Bắc, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, đánh trả không quân, hải quân, giành những thắng lợi lớn trong cuộc mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ. Giai đoạn này, Đảng ta quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) nhằm tạo bước ngoặt lớn, chuyển chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 trên toàn chiến trường miền Nam, cùng với việc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải chấp đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.

Năm 1969 - 1972, giai đoạn này Mỹ thất bại trên chiến trường miền Nam (1969), liền chuyển sang thi hành “Học thuyết Nichxơn” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và cũng bị thất bại một bước. Đầu năm 1972, quân và dân ta mở cuộc tấn công chiến lược trên toàn miền Nam và trước nguy cơ đổ vỡ của quân đội Sài Gòn - xương sống của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Nichxơn buộc phải huy động lực lượng quân sự Mỹ vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngày 6/4/1972, đế quốc Mỹ huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai, với hai chiến dịch Lai-nơ Bếch-cơ 1 (6/4/1972) và Lai-nơ Bếch-cơ 2 (đêm ngày 18/12/1972). Với tinh thần dũng cảm, bằng cách mưu trí, linh hoạt, quân và dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc tập kích chiến lược lần thứ hai bằng B52 của Mỹ, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội. Thắng lợi to lớn của quân và dân hai miền Nam Bắc, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (ngày 27/1/1973) về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.

Từ năm 1973-1975, quân và dân ta tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là “Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử” (30/4/1975), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước, Bắc - Nam sum họp một nhà. Đất nước hòa bình, QĐNDVN tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và cùng toàn dân khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên trong giai đoạn mới. Hòa bình chưa được bao lâu, cuộc chiến tranh biên giới nổ ra, LLVT cả nước một lần nữa lại cùng bước vào cuộc chiến đấu mới, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam (4/1977 - 1/1979) và cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc (17/2/1979 -16/3/1979) và 10 năm làm nghĩa vụ quốc tế giúp bạn Cam-pu-chia (1979 - 1989).

Ôn lại truyền thống vẻ vang của QĐNDVN đã 74 năm trôi qua, để khơi dậy niềm tự hào dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong các thế hệ dân tộc Việt Nam, để giữ vững ý chí tự lực, tự cường, cùng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng QĐNDVN cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, là lực lượng chính trị tin cậy, đội quân chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ cách mạng mới xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế..

vì chưa đến ngày 22-12 nên em thấy luôn năm 2019 nha

câu 4:

em nghĩ là truyền thống đánh giặc giữ nước, dành lại độc lập cho dân tộc.

Thảo luận

-- em mới lớp 6 thôi nếu hay, chị có thể cho em 5sao+ctrhn em tìm hiểu trên mạng rồi viết, tuyệt đối không sao chép cám ơn chị

Bạn có biết?

Lịch sử là môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này. Những học giả viết về lịch sử được gọi là nhà sử học. Các sự kiện xảy ra trước khi được ghi chép lại được coi là thời tiền sử.

Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thư

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247