Đáp án:
Giải thích các bước giải:
Ví dụ trong mặt phẳng cho hai điểm phân biệt A và B bất kì ta có thể xác định được vectơ {\displaystyle {\overrightarrow {AB}}} .
Một vectơ là những gì cần thiết để "mang" điểm A đến điểm B; từ "vector" trong tiếng Latin có nghĩa là "người vận chuyển",[1] lần đầu tiên được sử dụng bởi các nhà thiên văn học thế kỷ 18 trong cuộc cách mạng khảo sát các hành tinh quay quanh Mặt trời.[2] Độ lớn của vector là khoảng cách giữa 2 điểm và hướng dịch chuyển từ điểm A đến điểm B. Nhiều phép toán đại số trên các số thực như cộng, trừ, nhân và phủ định có sự tương tự gần gũi với vectơ, phép toán tuân theo các quy luật đại số quen thuộc của giao hoán, kết hợp và phân phối. Mỗi vectơ là một phần tử trong không gian vectơ, được xác định bởi ba yếu tố: điểm đầu (hay điểm gốc), hướng (gồm phương và chiều) và độ lớn (hay độ dài). Ví dụ, đoạn thẳng AB có điểm gốc là A, hướng từ A đến B được gọi là vectơ AB, ký hiệu là {\displaystyle {\overrightarrow {AB}}}. Vectơ được ký hiệu là {\displaystyle {\overrightarrow {AB}}} hoặc {\displaystyle {\vec {a}}}, {\displaystyle {\vec {b}}}, {\displaystyle {\vec {u}}}, {\displaystyle {\vec {v}}}.
Vectơ hướng từ A đến B
Trong giải tích, một vectơ trong không gian Euclid Rn là một bộ n số thực (x1, x2,..., xn).
Có thể hình dung một vectơ trong không gian Rn là đoạn thẳng có hướng (thường vẽ theo hình mũi tên), đuôi ở gốc tọa độ 0, mũi ở điểm (x1, x2,..., xn).
Vectơ đóng vai trò quan trọng trong ngành vật lý học: vận tốc, gia tốc của một vật và lực tác động lên nó có thể được biểu diễn bằng vectơ.
Mục lục
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Khái niệm về vectơ, như chúng ta biết ngày nay, đã phát triển dần dần trong khoảng thời gian hơn 200 năm. Khoảng một chục người đã bỏ nhiều công sức để đóng góp.[3]
Giusto Bellavitis đã trừu tượng hóa ý tưởng cơ bản vào năm 1835 khi ông thiết lập khái niệm về sự trang bị. Làm việc trong một mặt phẳng Euclide, anh ta đã tạo ra bất kỳ cặp phân đoạn đường nào có cùng độ dài và hướng. Về cơ bản, ông nhận ra một mối quan hệ tương đương trên các cặp điểm (lưỡng cực) trong mặt phẳng và do đó dựng lên không gian đầu tiên của vectơ trong mặt phẳng.[3]:52–4
Thuật ngữ vectơ được William Rowan Hamilton giới thiệu như là một phần của tứ phương, là tổng q = s + v của một số thực s (còn gọi là vô hướng) và vectơ 3 chiều. Giống như Bellavitis, Hamilton đã xem các vectơ là đại diện của các lớp phân khúc được định hướng trang bị. Khi các số phức sử dụng một đơn vị tưởng tượng (số ảo) để bổ sung cho phần số thực, Hamilton coi vectơ v là phần số ảo của một phần tư:
Phần số ảo, được xây dựng hình học bởi một đường thẳng hoặc vectơ bán kính, nói chung, đối với mỗi bậc bốn xác định (quaternion), chiều dài xác định và hướng xác định trong không gian, có thể được gọi là vectơ thành phần, hoặc đơn giản là vectơ tứ phương (quaternion).[4]
Một số nhà toán học khác đã phát triển các hệ thống giống như vectơ vào giữa thế kỷ XIX, bao gồm Augustin Cauchy, Hermann Grassmann, August Möbius, Comte de Saint-Venant và Matthew O'Brien. Công trình năm 1840 của Grassmann Theorie der Ebbe und Flut (Lý thuyết về Ebb và Flow) là hệ thống phân tích không gian đầu tiên tương tự như hệ thống ngày nay và có ý tưởng tương ứng với tích có hướng, tích vô hướng và vector vi phân. Các nghiên cứu của Grassmann phần lớn bị bỏ quên cho đến những năm 1870.[3]
Peter Guthrie Tait mang tiêu chuẩn bậc bốn sau Hamilton. Chuyên luận về Đệ tứ năm 1867 của ông bao gồm điều trị rộng rãi cho người điều hành nabla hoặc del ∇.
Năm 1878, yếu tố năng động được xuất bản bởi William Kingdon Clifford. Clifford đã đơn giản hóa nghiên cứu Quaternion bằng cách tách tích vô hướng và tích có hướng của hai vectơ từ phương trình Quaternion hoàn chỉnh. Cách tiếp cận này làm cho các tính toán véc tơ có sẵn cho các kỹ sư và những người làm việc theo không gian ba chiều và hoài nghi về không gian bốn chiều.
Josiah Willard Gibbs, ông đã được tiếp xúc với các nhóm tứ phương thông qua chuyên luận về điện và từ tính của James Clerk Maxwell, đã tách ra khỏi phần vectơ của họ để tính toán độc lập. Nửa đầu của Phân tích vectơ của Gibbs, xuất bản năm 1881, trình bày về cơ bản hệ thống phân tích vectơ hiện đại.[3] Năm 1901, Edwin Bidwell Wilson đã xuất bản Phân tích Vector, phỏng theo các bài giảng của Gibb, trong đó đã loại bỏ vectơ tứ phương (Quaternion) trong việc phát triển phép tính vector.
Các khái niệm cơ bản[sửa | sửa mã nguồn]
Góc giữa 2 vectơ[sửa | sửa mã nguồn]
Cho 2 vectơ {\displaystyle {\vec {a}}\neq {\vec {0}}} và {\displaystyle {\vec {b}}\neq {\vec {0}}}. Từ điểm O vẽ {\displaystyle {\vec {OA}}={\vec {a}}} và {\displaystyle {\vec {OB}}={\vec {b}}}. Khi đó {\displaystyle {\widehat {AOB}}} chính là góc giữa {\displaystyle {\vec {a}}} và {\displaystyle {\vec {b}}}. Ký hiệu {\displaystyle ({\vec {a}};{\vec {b}})={\widehat {AOB}}}
Quy ước trong hình học
Phép toán trên vectơ[sửa | sửa mã nguồn]Phép cộng vectơ bằng quy tắc hình bình hành (trái) và tam giác (phải)Phép cộng hai vectơ[sửa | sửa mã nguồn]Quy tắc[sửa | sửa mã nguồn]
Phép cộng hai vectơ: tổng của hai vectơ {\displaystyle {\overrightarrow {AB}}} và {\displaystyle {\overrightarrow {CD}}} là một vectơ được xác định theo quy tắc:
Tính chất[sửa | sửa mã nguồn]
{\displaystyle {\vec {a}}+{\vec {b}}={\vec {b}}+{\vec {a}}}
{\displaystyle ({\vec {a}}+{\vec {b}})+{\vec {c}}={\vec {a}}+({\vec {b}}+{\vec {c}})}
Hiệu hai vectơ[sửa | sửa mã nguồn]
Ta có: {\displaystyle {\overrightarrow {AB}}} - {\displaystyle {\overrightarrow {CD}}} = {\displaystyle {\overrightarrow {AB}}} +(-{\displaystyle {\overrightarrow {CD}}})=.{\displaystyle {\overrightarrow {AB}}} + {\displaystyle {\overrightarrow {DC}}}
Quy tắc trừ: Với 3 điểm A, B, C, ta có {\displaystyle {\vec {AB}}-{\vec {AC}}={\vec {CB}}={\vec {CA}}-{\vec {BA}}}
Tích vectơ với một số[sửa | sửa mã nguồn]Quy tắc[sửa | sửa mã nguồn]
Tính chất[sửa | sửa mã nguồn]
Trung điểm của đoạn thẳng và trọng tâm của tam giác[sửa | sửa mã nguồn]
Điều kiện để hai vectơ cùng phương[sửa | sửa mã nguồn]
Điều kiện cần để hai vectơ {\displaystyle {\vec {a}}} và {\displaystyle {\vec {b}}} {\displaystyle ({\vec {b}}\neq 0)} cùng phương là có một số k để {\displaystyle {\vec {a}}=k{\vec {b}}}
Nếu {\displaystyle {\vec {a}}} và {\displaystyle {\vec {b}}} cùng hướng thì {\displaystyle k=\left\vert {\frac {\vec {a}}{\vec {b}}}\right\vert }
Nếu {\displaystyle {\vec {a}}} và {\displaystyle {\vec {b}}} ngược hướng thì {\displaystyle k=-\left\vert {\frac {\vec {a}}{\vec {b}}}\right\vert }
Tích vô hướng của hai vectơ[sửa | sửa mã nguồn]Quy tắc[sửa | sửa mã nguồn]
{\displaystyle {\vec {a}}\cdot {\vec {b}}=|{\vec {a}}||{\vec {b}}|\cos \alpha }Các tính chất của tích vô hướng[sửa | sửa mã nguồn]
Một số tính chất mở rộng[sửa | sửa mã nguồn]
Biểu thức tọa độ của tích vô hướng[sửa | sửa mã nguồn]
Trong mặt phẳng: {\displaystyle {\vec {a}}.{\vec {b}}=a_{1}.b_{1}+a_{2}.b_{2}}
Trong không gian 3 chiều: {\displaystyle {\vec {a}}.{\vec {b}}=a_{1}.b_{1}+a_{2}.b_{2}+a_{3}.b_{3}}
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Đáp án là chưa đủ
Toán học là môn khoa học nghiên cứu về các số, cấu trúc, không gian và các phép biến đổi. Nói một cách khác, người ta cho rằng đó là môn học về "hình và số". Theo quan điểm chính thống neonics, nó là môn học nghiên cứu về các cấu trúc trừu tượng định nghĩa từ các tiên đề, bằng cách sử dụng luận lý học (lôgic) và ký hiệu toán học. Các quan điểm khác của nó được miêu tả trong triết học toán. Do khả năng ứng dụng rộng rãi trong nhiều khoa học, toán học được mệnh danh là "ngôn ngữ của vũ trụ".
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247