Trang chủ Địa Lý Lớp 10 Biểu hiện: sự thay đổi các kiểu thảm thực vật...

Biểu hiện: sự thay đổi các kiểu thảm thực vật theo kinh độ. * Chứng minh tự nhiên Việt Nam chiu tác động đồng thời của quy luật địa đới lần phi địa đời Dẫn

Câu hỏi :

Giúp em chứng minh với ạ

image

Lời giải 1 :

Biểu hiện của tính địa đới ở Việt Nam

Việt Nam nằm gọn trong khu vực nội chí tuyến, nhích về phía chí tuyến hơn là về phía xích đạo lẽ ra sự phân hoá theo vĩ độ phải không đáng kể như ở các lãnh thổ khác cùng vĩ độ, thí dụ như Ấn Độ (0,040C /1 độ vĩ tuyến).

Xét nhiệt độ tháng nóng nhất (VII) ta thấy đúng như vậy (Hà Nội 28,9oC, thành phố Hồ Chí Minh 28,80C). Như vậy, sự phân hóa Bắc Nam ở nước ta là do nguyên nhân khác, nguyên nhân địa ô.

Về mùa đông: Hoạt động của gió mùa đông bắc với khối khí cực đới biến   tính NPc gây sự chênh lệch về nhiệt độ giữa Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh lên tới 9oC, (16,60C và 25,60C), nghĩa là gần 10C/1 độ vĩ tuyến. Vì thế, khi tính theo nhiệt độ trung bình năm, sự phân hóa Bắc–Nam ở Việt Nam tới 0,350C/1 độ   vĩ tuyến, gấp bội các nước khác cùng vĩ độ.

Sự phân hóa Bắc – Nam diễn ra rất từ từ, giữa hai vĩ độ gần nhau sự khác biệt rất nhỏ, khó thấy.

- Bước nhảy thứ nhất: xảy ra ở vĩ độ 180B (đèo Ngang).

+ Từ đèo Ngang trở ra phía bắc: là khu vực mà phần lớn lãnh thổ thuộc đai nội chí tuyến chân núi, có mùa đông dài từ 3 tháng trở lên (nhiệt độ trung bình tháng mùa đông dưới 180C, có nơi dưới 150C), có một số ít nơi chỉ có thời kỳ lạnh và   thời tiết lạnh khi gió mùa đông bắc mới tràn về do mùa đông chưa đủ 3 tháng, như các vùng ven biển và khu vực trung gian từ sông Chu (vĩ tuyến 200B) đến đèo Ngang.

+ Từ phía nam đèo Ngang: ngay các  đồi cao (300-500m) cũng không có đủ  một mùa đông dài 3 tháng dưới 180C, nếu muốn có thì phải lên miền núi và khi đó lại là sự phân hoá theo đai cao. Tại vùng đồng bằng ven biển, không còn tháng nào nhiệt độ dưới 180C nữa, tức đã sang khu vực có tính chất nhiệt đới rõ rệt.

- Bước nhảy vọt thứ hai: Xảy ra ở vĩ tuyến 160B, (đèo Hải Vân).

+ Nếu chỉ xét theo chỉ tiêu về nhiệt độ tháng lạnh nhất dưới 180C thì ranh giới này không quan trọng bằng ranh giới đèo Ngang. Nhưng nếu xét đến nhân tố phân hoá chính là gió mùa đông bắc và  các thời tiết lạnh do nó gây ra thì ranh giới đèo Hải Vân lại quan trọng hơn đèo Ngang.

+ Gió mùa đông bắc thường phải đến đèo Hải Vân mới dừng lại và quãng  đường từ Lạng Sơn đến đèo Hải Vân, gió mùa chỉ đi mất 24 giờ. Khi đến Thừa Thiên vẫn có thời tiết lạnh, mà biển hiện rõ nhất là nhiệt độ tối thiểu tuyệt đối. Nhiệt độ trung bình tháng dưới 100C còn gặp ở Bình - Trị -  Thiên (Đồng Hới 8,30C, Huế 8,80C).

   + Nhiệt độ tối thiểu là nhân tố sinh thái giới hạn sự phân bố của sinh vật, vì thế các loài thực vật nhiệt đới phương Nam khó tính thường không vượt quá 160B, thí dụ như Sao, ngược lại loài chịu lạnh phương Bắc vẫn có khả năng xuống đến đây, thí dụ như Lim.

   + Khu vực 18 - 160B vẫn mang tính chất trung gian, chuyển tiếp từ khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc sang khu vực không chịu ảnh hưởng của    gió mùa đông bắc. Chỉ từ phía nam vĩ tuyến 160B, mới không còn có những nhiệt độ thấp có ảnh hưởng đến sinh vật.

   - Bước nhảy vọt thứ ba: Xảy ra ở vĩ độ 140B xấp xỉ con đường 19 từ Qui Nhơn qua An Khê đi Plây Cu.

   + Từ phía nam đèo Hải Vân vì không có mùa đông mà sự phân hóa quan trọng là sự phân hoá trong chế độ ẩm. Do ảnh hưởng của khối núi Công Tum thượng mà khí hậu phía bắc vĩ độ 140B tương đối ẩm, mùa khô ngắn và không sâu sắc.

   + Nhưng từ phía nam đèo An Khê, địa hình thấp xuống, mùa khô trở nên sâu sắc, đồng thời kéo dài, có thể trên 5 - 6 tháng. Ngoài ra chỉ từ Qui Nhơn, tổng   nhiệt độ toàn năm mới đạt tiêu chuẩn vòng xích đạo (Quảng Ngãi 94540C; Qui Nhơn 96360C).

. Biểu hiện quy luật phi địa đới ở Việt Nam

* Quy luật phân hoá theo kinh độ ở Việt Nam (địa ô)

- Nguyên nhân: sự phân hoá theo kinh độ chủ yếu do hiệu ứng phơn và tác dụng bức chắn của địa hình gây ra, còn vị trí so với biển thì ít tác dụng do nước ta hẹp ngang.

- Biểu hiện

+ Nơi đón gió mùa đông bắc sẽ lạnh hơn nơi khuất gió đến vài độ C, đồng thời cũng ẩm hơn vì có mùa đông và mưa địa hình.

+ Nơi đón gió mùa tây nam cũng ẩm hơn và bớt nóng hơn so với nơi chịu   hiệu ứng phơn. Các dãy núi bình phong quan trọng nhất là dải Hoàng Liên Sơn, dải núi biên giới Việt – Lào, dải Trường Sơn (Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ), tiếp đến dải Ngân Sơn.

+Nơi có độ lục địa lớn nhất ở Việt Nam, thể hiện ở biên độ nhiệt trong năm  lớn, là Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ, với biên độ nhiệt trung bình năm 12-  140C.

+ Nơi có độ lục địa lớn thứ hai là miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, vì nơi đây còn chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc. Biên độ nhiệt trung bình năm từ 10-12 0C.

+ Từ phía nam đèo Hải Vân, biên độ xuống dưới 100C, còn từ phía nam Nha Trang, biên độ xuống dưới 50C, đạt tiêu chuẩn khí hậu xích đạo điều  hòa.

+ Sự phân hóa về phương diện nhiệt ẩm còn thể hiện qua sự phân bố của giới sinh vật.

Luồng thực vật á nhiệt đới Hoa Nam chủ yếu chỉ lan tràn trong miền   Bắc và Đông bắc Bắc Bộ. Luồng thực vật rụng lá mùa khô Ấn Độ- Miến Điện tập trung phần lớn ở Tây Bắc và Tây Nguyên. Luồng Mã Lai - Inđônêxia ít khi lên trên vĩ tuyến 160B, nơi có biên độ năm vượt quá 100C.

* Quy luật phân hóa theo độ cao ở nước ta

- Nguyên nhân: do ảnh hưởng của vận động nâng lên tân kiến tạo mà 3/4 lãnh thổ Việt Nam là đồi núi chia cắt sâu và dày, non một nửa cao trên 500m.

- Biểu hiện: ở Việt Nam phân ra ba đai cao với nhiều á đai là:

+ Đai nhiệt đới chân núi từ 0 đến 600m – 700m ở miền Bắc và đến 900-1000m ở miền Nam: mùa hạ nóng, với nhiệt độ trung bình tháng trên 250C, thoả mãn yêu cầu về nhiệt cao của các loài cây nhiệt đới và xích đạo. Đai nhiệt đới chân núi có thể chia nhỏ thành 3 á  đai.

Á đai 0 - 100m: miền Bắc không có mùa đông rét, miền Nam nóng quanh năm.

Á đai 100 - 300m: miền Bắc có nơi đã có mùa đông rét, miền Nam mùa nóng đã giảm sút.

Á đai trên 300m: miền Bắc nhiều nơi có mùa đông rét, miền Nam mùa nóng giảm đến một nửa.

+ Đai á nhiệt đới hơi ẩm đến ẩm ướt trên núi từ 600 – 700m ở miền Bắc và 900 – 1000m ở miền Nam đến 2600 m

Á đai 1 từ ranh giới đai nhiệt đới đến 1600 – 1700m: ở miền Bắc là á đai cận nhiệt điển hình. Ở miền Nam: quanh năm nhiệt độ xấp xỉ nhệt độ các mùa xuân - thu ở vùng á nhiệt đới.

Á đai 1600, 1700m – 2600m: Có tính chất chuyển tiếp lên đai ôn đới do không còn tháng nào trên 200C, tháng nóng nhất cũng chỉ xấp xỉ nhiệt độ mùa hạ ôn đới. Mùa đông vẫn chưa lạnh bằng mùa đông ôn đới, là á đai rừng rêu trên đất mùn alít vì khí hậu lạnh và ẩm ướt quanh năm.

+ Đai ôn đới hơi ẩm đến ẩm ướt trên núi từ 2.600m trở lên, chỉ phát triển hạn chế tại một số núi cao trên dưới 3.000m ở miền Bắc Việt Nam (Hoàng Liên Sơn). Quanh năm rét dưới 150C, mùa đông xuống dưới 50C, thực vật ôn đới chiếm đa số tuyệt đối: cây lá rộng có các loài cây Đỗ quyên cây lá kim có hai loài đặc biệt chỉ xuất hiện từ 2600m trở lên như Thiết sam ư, Lãnh sam; đặc biệt   từ 2800m họ tre trúc lùn chiếm ưu thế, có nơi tạo thành một thảm thấp20– 30cm dày đặc.

Thảo luận

Bạn có biết?

Địa lí học (trong tiếng Hy Lạp γεωγραφία, geographia, nghĩa là "mô tả Trái Đất") là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu về các vùng đất, địa hình, dân cư và các hiện tượng trên Trái Đất. Dịch sát nghĩa sẽ là "nhằm mô tả hoặc viết về Trái Đất".

Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thư

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247