1. Giá trị hiện thực: Truyện tố cáo xã hội phong kiến bất công, gây nhiều đau khổ cho người phụ nữ.
- Phóng tác một câu chuyện xảy ra và được lưu truyền trong dân gian hàng trăm năm về trước (cuối đời Trần đến đời Hồ, tức từ cuối thế kỉ XIV đến đầu thế kỉ XV), Nguyễn Dữ muốn mượn chuyện xưa để nói chuyện nay (thế kỉ XVI, thời Nguyễn Dữ sống).
Chiến tranh, loạn lạc gây ra đau khổ cho con người
- Trương Sinh ra lính, phải xa cách mẹ già, vợ trẻ.
+ Buổi chia li thật ngậm ngùi xót xa. Bà mẹ dặn con: “… nhưng trong chỗ binh cách, phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy”. Người vợ tiễn chồng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.
+ Xa con, bà mẹ nhớ con sinh ra ốm. Người vợ trẻ Vũ Thị Thiết vừa nuôi con thơ, vừa tận tình thuốc thang chạy chữa cho mẹ chồng. Nhưng không cứu nổi, mẹ chồng mất, nàng một mình lại lo liệu việc ma chay.
- Người dân chạy loạn, đắm thuyền, chết đuối cả.
- Lễ giáo phong kiến bất công khiến cho người đàn ông có được quyền hành hạ, ruồng rẫy người phụ nữ, dẫn đến cái chết đầy oan khuất của người vợ chung thủy, hiếu nghĩa. Đọc truyện, ta phẫn uất trước cái chết của Vũ Nương, một người phụ nữ tiết hạnh, chỉ có công chứ không có một chút tội lỗi nào.
- Vì đâu gây nên nỗi oan khuất đó ?
+ Có phải do thói ghen tuông của Trương Sinh bởi cả tin ở lời của một đứa trẻ ? – Đúng là có điều đó.
+ Nhưng căn nguyên sâu xa là do sự bất công của lễ giáo phong kiến: trong quan hệ vợ chồng dưới chế độ phong kiến, chỉ có người chồng là có toàn quyền đối với người vợ, bất kể đúng sai, như trong truyện: Trương Sinh nghi oan cho vợ, không nói thẳng với vợ, không thèm nghe lời thanh minh, nên đã dẫn đến cái chết thảm thương của người vợ vô tội.
+ Giá trị tố cáo càng cao khi Vũ Nương tuy oan đã được giải, nhưng nàng không thể nào trở lại cõi trần với chồng con được nữa; Vũ Nương thà trở về sống dưới thủy cung còn hơn sống trên cõi đời đầy oan khuất, đầy đau khổ của chế độ phong kiến đương thời.
2. Giá trị nhân đạo: Truyện để cao phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ: đảm đang, hiếu nghĩa, chung thủy.
* Truyện đã xây dựng nên hình tượng Vũ Nương, một hình tương phụ nữ đẹp với những đức tính đáng quý:
- Đảm đang
+ Khi chồng ra lính, Vũ Nương đã một mình: nuôi dạy con thơ, nuôi dưỡng mẹ chồng, thuốc thang khi ốm đau, lo liệu ma chay khi mẹ chồng mất.
- Hiếu nghĩa
+ Với mẹ chồng, Vũ Nương giữ tròn chữ hiếu của người con đối với cha mẹ, thay chồng nuôi mẹ chồng, coi mẹ chồng như mẹ đẻ của mình.
- Với chồng, Vũ Nương trước sau vẫn giữ trọn vẹn nghĩa tình:
+ Biết chồng vốn tính đa nghi, “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.
+ Khi xa chồng, nàng không để xảy ra điều tai tiếng gì.
+ Khi bị nghi oan, không thể giãi bày được, nàng lấy cái chết để chứng thực nghĩa tình của mình.
+ Sau khi tự vẫn, được “cứu sống” (“sống” ở thủy cung), tuy cuộc sống thanh thản, sung sướng, nàng vẫn nhớ đến chồng, mong được chồng biết đến nỗi oan và giải oan cho mình.
- Trong trắng, thủy chung
+ Vũ Nương hoàn toàn vô tội (giữ trọn nghĩa tình vợ chồng) nhưng lại bị nghi oan, dù có giãi bày cũng không gỡ ra được nên nàng phải chết với lời thề: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Vũ Nương tin ở tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Nên sau khi chết đã được như lời nguyền: “Các nàng tiên trong cung nước thương tôi vô tội, rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá…”, rồi được Linh Phi cho sống sung sướng trong cung…
+ Tiết nghĩa của Vũ Nương là như vậy, nhưng như trên đã nói: oan được giải, gặp lại chồng nhưng nàng không thể trở lại sống ở cõi đời được. Câu chuyện càng thương tâm. Và tấm lòng nàng càng sáng tỏ.
3. Giá trị nghệ thuật: Truyện có nhiều thành công về nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện giàu kịch tính, tập trung làm nổi bật nỗi oan của Vũ Nương, gây xúc động đối với người đọc
- Xuyên suốt câu chuyện, trong mọi tình tiết, chi tiết, có dịp là tác giả giới thiệu, khẳng định, ca ngợi phẩm chất của Vũ Nương. Để nhân vật (Vũ Nương) nói nhiều lần trong tác phẩm, giọng nói khi thì thắm thiết, khi thì thống thiết khiến người đọc càng xúc động.
- Cách xây dựng tình tiết, thắt nút, gỡ nút đẩy bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thảm của nó:
+ Thắt nút bằng yếu tố bất ngờ: Một câu nói ngây thơ nghe như thật của một trẻ thơ mà gây nên bão táp trong cuộc đời vợ chồng Trương Sinh, Vũ Nương: chồng nghi kị vợ, hạnh phúc gia đình tan vỡ và cuối cùng là cái chết bi thảm của người vợ trong trắng.
+ Gỡ nút cũng bằng yếu tố bất ngờ: Bấy nhiêu bão tố, bi kịch, oan khiên bỗng được làm sáng tỏ cũng bằng một câu nói ngây thơ của một trẻ thơ (“Cha Đản lại đến kia kìa !”), hay nói cho đúng hơn là lời nói đùa của người mẹ với con khi vắng chồng
1. Giá trị nội dung trong Chuyện người con gái Nam Xương
a) Giả trị hiện thực Chuyện người con gái Nam Xương
– Tố cáo xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống, quyền làm người của người phụ nữ, gây nhiều đau khổ, oan trái cho họ.
– Chiến tranh loạn lạc làm cho gia đình tan nát, con người phải chịu nhiều bất hạnh. Gia đình Trương Sinh không nằm ngoài điều đó: Chiến tranh, Trương Sinh phải đi lính, ở nhà mẹ già vì nhớ con ốm mà chết. Vũ Nương một mình lo toan gánh vác mọi công việc, chăm sóc mẹ chồng, nuôi dạy con thơ, vò võ chờ chồng giữa đêm khuya thanh vắng… Vì chiến tranh xa cách nên sau này mới có nỗi oan tày trời cho Vũ Nương.
=> Tất cả mọi người trong xã hội đó đều là nạn nhân của cuộc chiến phi nghĩa.
– Tố cáo lễ giáo phong kiến, người đàn ông có nhiều quyền hành đã đẩy người phụ nữ đến cái chết oan uổng mà Trương Sinh là người đại diện: Khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương dặn dò ân cần đằm thắm nhưng chàng dửng dưng. Khi trở về, nghe bé Đản nói, Trương Sinh nghi là vợ hư, không hề suy xét, cố tình làm to chuyện, mắng nhiếc vợ, đuổi đi, không hề động lòng trước những lời van xin tha thiết của Vũ Nương -> Vũ Nương đành gửi thân vào dòng nước để tẩy rửa nổi oan. Với hình ảnh này, Nguyễn Dữ còn tố cáo chế độ nam quyền độc đoán. Vũ Nương chưa một ngày sống hạnh phúc, nay lại phải ôm nỗi oan đến mức phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử.
– Chi tiết Trương Sinh hiểu ra mọi chuyện và giải oan cho Vũ Nương là chi tiết có giá trị hiện thực nhất. Nỗi oan được giải nhưng con người vĩnh viễn không còn nữa, “bình rơi, trâm gãy”, hạnh phúc đã vỡ tan, nỗi đau không hàn gắn được, Trương Sinh mất vợ, bé Đản mất mẹ, Vũ Nương xa lìa trần thế…
-> xã hội phong kiến đã dồn đẩy con người đến tận ngõ cụt của cuộc đời.
b) Giá trị nhân đạo Chuyện người con gái Nam Xương
Là nhà văn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam quan tâm đến số phận của người phụ nữ: chia sẻ, cảm thông với nỗi bất hạnh, hiểu thâu những nỗi oan trái mà người phụ nữ phải gánh chịu. Nguyễn Dữ đã tìm đến với họ, đồng cảm trước nỗi đau và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ. Vì vậy mỗi hình ảnh câu chữ chính là Lấm lòng, tình thương của ông. Chuyện người con Nam Xương là một minh chứng cho trái tim giàu tình yêu thương của Nguyễn Dữ.
Trong truyện, ông đã ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương. Là người phụ nữ thuỳ mị, nết na, đảm đang, tháo vát. Là người con hiếu nghĩa. Là người vợ thủy chung, khi chồng ở nhà: giữ gìn khuôn phép; khi chồng đi lính: thương nhớ, không ham danh vọng tiền tài, chỉ mong “hai chữ bình yên” với thú vui “nghi gia, nghi thất”; nhớ chồng, chỉ bóng của mình trên vách để an ủi mình và con lúc vắng chồng; “ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Khi bị chồng nghi oan, không thể giãi bày, nàng đã lấy cái chết để chứng minh cho lấm lòng trong trắng, thủy chung. Trong lòng nàng không gì khác ngoài lòng yêu chồng, thương con.
Tác giả còn xót thương, thông cảm với nỗi oan ức của người phụ nữ. Trong khi chế độ phong kiến coi thường quyền sống của người phụ nữ, không hề quan tâm đến nỗi khổ của họ, nguyện vọng của họ thì Nguyễn Dữ đã đề cập đến nỗi khổ ấy, xót thương cho nỗi oan ấy. Tác giả đề cao khát vọng của họ, muốn họ được tôn trọng. Chi tiết cuối truyện, việc Vũ Nương trở về trên bến Hoàng Giang lộng lẫy, sang trọng, lúc ẩn, lúc hiện sau đó mờ dần rồi biến mất, đã phản ánh ước mơ, nguyện vọng của nhân dân lao động về lẽ sống công bằng: người bị oan thì phải được minh oan, dù việc đó xảy muộn màng khi họ đã chết. Chi tiết còn khẳng định cái tốt, cái thiện được tôn vinh, cái đẹp được khẳng định.
2. Giá trị nghệ thuật Chuyện người con gái Nam Xương.
– Xây dựng tình huống bất ngờ, độc đáo nhưng hợp lí. Cuộc đời của Vũ Nương xoay quanh cái bóng: nó là nỗi nhớ, là tình yêu, là hạnh phúc, nhưng nó cũng là nỗi bất hạnh, oan trái, là cái chết bi thảm… Cái bóng được tác giả xây dựng khi Trương Sinh trở về, không đưa ngay từ đầu -> làm cho câu chuyện hấp dẫn, hồi hộp, hợp với tâm trạng của Trương Sinh lúc bấy giờ để câu chuyện phát triển đến đỉnh điểm của bi kịch.
– Cách gỡ nút câu chuyện cũng rất bất ngờ.
– Cách kể chuyện giàu kịch tính, kết hợp giữa hiện thực và mộng tưởng
=> ám ảnh nỗi đau.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247