A. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề
- Giới thiệu ý kiến
B. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Mỗi con người sinh ra đều có một dấu vân tay riêng, mang những đường nét, hình dạng đặc thù, không giống nhau với bất kì ai cho dù đó là anh chị em đồng sinh.
- Vân tay là dấu hiệu, cũng là cơ sở chuẩn xác để xác minh danh tính của một công dân, được lưu trữ để xác thực nhân thân, phân biệt với người khác.
- chỉ hình thức sáng tạo ngôn từ độc đáo, hiểu rộng ra là nét riêng, cá tính sáng tạo của một nhà thơ. Đồng thời, cũng là để nhấn mạnh đó là yếu tố quan trọng để tạo nên một “người nghệ sĩ thứ thiệt” – một người nghệ sĩ chân chính, có tài năng và có tư chất..
2. Chứng minh, phân tích qua hai tác phẩm " Đồng chí" Chính Hữu và " Bài thơ về tiểu đội xe không kính" Phạm Tiến Duật
- Nội dung đều về người lính nhưng hai thời khác nhau, cách tiếp cận khác nhau.
- Hình tượng người lính hiện lên như thế nào?
- Nghệ thuật dùng để miêu tả hình tượng người lính?
3. Bình luận ý kiến trên
C. Kết bài
- Suy nghĩ của bản thân
Một nhà văn Nga từng khẳng định: ”Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng của mình, tìm thấy những ấn tượng có giá trị khái quát và biết làm những ấn tượng ấy có hình thức riêng”. Có lẽ một trong những cái khác biệt để tạo ra khoảng cách nghệ sĩ và người thường chính là ở chỗ đó. Không phải ai cầm bút cũng đều là nghệ sĩ. Các nhà văn cũng vậy. Họ đều có thể viết được thơ, văn nhưng để làm được thơ( văn) đích thực, thơ( văn) có sức sống và có chỗ đứng trong lòng người đọc thì không phải ai cũng làm được. Một nhà sáng tác đích thực có phong cách sáng tạo càng độc đáo, đặc sắc thì người đó càng thành công. Chẳng vậy mà trong bài thơ “Vân chữ”, Lê Đạt từng viết:
“Mỗi công dân có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn.”
Mỗi con người sinh ra đều có một dấu vân tay riêng, mang những đường nét, hình dạng đặc thù, không giống nhau với bất kì ai cho dù đó lag anh chị em đồng sinh. Vân tay là dấu hiệu, cũng là cơ sở chuẩn xác để xác minh danh tính của một công dân, được lưu trữ để xác thực nhân thân, phân biệt với người khác. Với cách nói đầy hình ảnh gợi sự liên hệ tương đồng với “vân tay”, Lê Đạt đã dùng vân chữ để chỉ hình thức sáng tạo ngôn từ độc đáo, hiểu rộng ra là nét riêng, cá tính sáng tạo của một nhà thơ. Đồng thời cũng là để nhấn mạnh đó là yếu tố quan trọng để tạo nên một “người nghệ sĩ thứ thiệt”- một người nghệ sĩ chân chính,có tài năng và có tư chất, có phong cách nghệ thuật riêng biệt không thể trộn lẫn.
“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình”. Lĩnh vực của “cái độc đáo”- tức là có tính chất của riêng mình, mang dấu ấn cách tân không giống những người khác- đòi hỏi ở nhà văn không chỉ có khát vọng làm người nghệ sĩ mà có tố chất cần có trước hết ở họ là phải có tài, còn gọi là năng khiếu vượt trội. Thêm nữa, nhà văn phải thỏa mãn nhu cầu của bạn đọc, của cuộc sống- ấy là sự sáng tạo “khơi những nguồn chưa ai khơi”. Chính cái độc đáo ấy tạo nên phong cách nghệ thuật. Một khi tác giả sáng tác văn học tạo được dấu ấn riêng biệt, độc đáo trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, biểu hiện rõ cái độc đáo qua các phương diện nội dung và hình thức của từng tác phẩm, nhà văn đó được gọi là nhà văn có phong cách nghệ thuật. Riêng biệt, mới mẻ và hấp dẫn trong sáng tác, không phải tác giả nào cũng đạt được điều đó, do vậy không phải ai là nhà văn đều có phong cách nghệ thuật. Giai đoạn văn học 1930-1945 là giai đoạn phục hưng của nền văn học dân tộc, một chặng đường ngắn mà hình thành khá nhiều cây bút có phong cách. Dựa vào thành tựu trong sáng tác của các nhà văn, chúng ta đều có thể nêu ra các tác giả văn xuôi hiện thực có phong cách rõ rệt là Ngô tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… hay các thi sĩ như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Tố Hữu. Vậy, dựa vào những biểu hiện nào để chúng ta có thể xác định một nhà văn( nhà thơ ) có phong cách nghệ thuật?
Có nhiều biểu hiện khác nhau của phong cách văn học. Trước hết nhà văn có biểu hiện mới mẻ, độc đáo trong cách nhìn, cách khám phá cuộc sống. Chẳng hạn, cùng là nhà văn hiện thực trước Cách mạng như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,… nhưng Nam Cao quan tâm nhiều đến nỗi khổ đến mức bi kịch của người tri thức. Nam Cao cũng cắt nghĩa được nguyên nhân sâu xa nỗi khổ của họ và lên tiếng đánh động xã hội. “Người nọ, người kia không đáng để ta khinh ghét. Cái đánh nguyền rủa là cái xã hội kia. Nó đã tạo ra những con người tham lam và ích kỷ”( Sống mòn). Phát hiện và phát biểu như vậy là đáng quý, nhưng cái “hơn người” của Nam Cao là luôn băn khoăn về nhân phẩm của con người và ý thức báo động con người hãy giữ lấy nhân phẩm của mình trước những cái nhỏ mọn. đó chính là chiều sâu của cái tâm nhà văn, nó định hướng cách nhìn đời và nhìn người của tác giả.
Khác với khoa học, văn chương luôn luôn đề cao sự sáng tao, đề cao cái riêng của người cầm bút, trước hết là cái riêng trong giọng điệu của tác phẩm. Vì vậy, người ta hay nói giọng trào phúng của Vũ Trọng Phụng, giọng triết lý của Nam Cao. Ngay ở Nam Cao cũng có giọng trào phúng, nhưng có người đã chỉ ra rất cụ thể như sau: “So với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng thì Nam Cao có nhiều điểm khác biệt. Tiếng cười của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng là tiếng cười hướng ngoại, tiếng cười của Nam Cao là tiếng cười hướng nội.”
Dấu ấn sáng tạo của tác giả còn bộc lộ ra qua các yếu tố thuộc phương diện nội dung. Chọn lựa đề tài, triển khai cốt truyện, xác định chủ đề, xác lập tứ thơ… mỗi nhà văn sáng tạo ra “đất” riêng của mình. Cũng hiện thực tăm tối trước năm 1945, Ngô Tất Tố phát hiện ra “vùng trời tối đen như mực” của người nông dân, trong khi Thạch Lam quan tâm đến những đứa trẻ phố huyện có cuộc sống “ một ngày như mọi ngày”, đến ước mơ cũng không biết ước mơ điều gì.
Biểu hiện rõ nhất của cá tính sáng tạo làm nên phong cách nghệ thuật của tác giả văn học là ở hệ thống các phương thức nghệ thuật và kỹ thuật trong tác phẩm. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng ngôn ngữ, tổ chức kết cấu… bộc lộ sự “cao tay” của nhà văn. Tài hoa và uyên bác là phong cách của Nguyễn Tuân trong việc vận dụng ngôn ngữ, ở lĩnh vực này thì Vũ Trọng Phụng để lại ấn tượng ở ngôn ngữ nhân vật đạt mức độ cá tính hóa cao nhất.
Sáng tạo để làm nên cái riêng, cái mới lạ trong các phương diện trên, song mỗi nhà văn có phong cách phải “thống nhất trong sự đa dạng của sáng tác. Các độc đáo, vẻ riêng phải xuất hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại và có tính chất bền vững nhất quán”. Không chỉ có thế, bất cứ sự sáng tạo ra cái độc đáo nào đòi hỏi phải nằm trong tầm đón nhận của độc giả, nghĩa là phải có hiệu quả thẩm mỹ, đem lại sức hấp dẫn bền lâu cho người đọc.
Trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám, người ta đã thống kê được rất rõ ràng, có hai đề tài chính: Người nông dân và người trí thức tiểu tư sản. Trong bối cảnh xã hội đang nảy sinh mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, xã hội thực dân nửa phong kiến bấy giờ ở nông thôn và thành thị ngày càng bộc lộ những ung nhọt về mặt tư tưởng văn hóa. Nhưng Nam Cao không chú ý phản ánh những vấn đề, những hiện thực lớn lao của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngay hai đề tài người nông dân và người trí thức, nhà văn cũng chọn những hiện tượng tưởng như nhỏ nhặt đời thường của hai đối tượng để tạo dựng câu chuyện. Nhưng triết lý về đời sống qua các “ tiểu tiết” trong văn xuôi của Nam cao quả là không nhỏ.
Nếu như với Ngô Tất Tố- nhà văn nổi tiếng viết về xung đột giai cấp gay gắt và phản ánh bức tranh nông thôn toàn cảnh thì Nam Cao ít hướng đến phạm vi miêu tả rộng như thế. Nhà văn của làng Đại Hoàng này mạnh dạn đi vào “cái hàng ngày” nhưng mang tính phổ biến, cái bản chất. Các đề tài “thu nhỏ” dễ nhận ra ngay ở nhan đề của các truyện ngắn: “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Con mèo”, “ Một đám cưới”, “Một bữa no”, “Từ ngày mẹ chết”,… Điều nổi bật ở tài năng Nam cao là “ông đã khai thác được cái chiều sâu,cái mạnh nước ngầm ẩn chứa bên trong và nâng lên một tầm khái quát cao hơn. Ở truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta thường thấy hai tầng ý nghĩa: một tầng ý nghĩa gắn liền với những tình tiết, sự việc và câu chuyện mà nhà văn muốn trần thuật lại; tầng ý nghĩa thứ hai hai là những đúc kết có tính chất triết lý khái quát”. Quả vậy, tiếp xúc với truyện ngắn “Trẻ em không được ăn thịt chó” độc giả có thể cười về cái triết lý của “hắn”-người bố: Trẻ em không được ăn thịt chó. Nhưng độc giả mục kích cảnh cuối truyện, cái đói khiến mấy đứa trẻ hí hửng đợi người lớn ăn thịt chó, rồi chờ đến lượt bọn chúng, nhưng “ trong mâm chỉ còn bát không. Thằng cu con khóc òa lên…”. Chi tiết nhỏ song gợi ra bao suy nghĩ trong long người đọc. Trước miếng ăn người ta quên cả sĩ diện. Câu chuyện đâu chỉ dừng lại và trọng tâm ở câu chuyện trẻ em không được ăn thịt chó. Phải chăng, cái đói đã khiến con người tìm mọi cơ hội cứu đói, trước hết cho bản thân mình? Qua một bữa ăn, cách ăn, nhà văn đã phác họa một bức tranh của nông thôn Việt Nam: Cái đói, chính cái đói có nguy cơ làm mất đi giá trị con người. Đó là vấn đè tha hóa…
Ở đề tài trí thức tiểu tư sản, nhà văn cũng phản ánh những câu chuyện vụn vặt, hàng ngày của họ. Nhà văn Hộ mỗi lần nhậu nhẹt với bạn bè lại về nhà đánh vợ, đuổi vợ đi rồi hối hận. Một điệp khúc lặp đi lặp lại trong cuộc sống của văn sĩ Hộ. Đó đâu chỉ là câu chuyện bi kịch của riêng Hộ. Tác giả chỉ ra bi kịch của tầng lớp tri thức trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là bi kịch vỡ mộng, đời thừa, sống mòn của những con người có khả năng tự ý thức rất cao. Đó là vấn đề về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Qua thế giới hình tượng, nhà văn khéo léo chuyển tải những tuyên ngôn của mình. Điều đáng nói là nhiều thông điệp tiềm ẩn đằng sau câu chuyện, tâm trạng. Trước Nam Cao đãcó không ít nhà văn phát ngôn về văn chương, về hiện thực. Song nhiều nhà nghiên cứu khẳng định rằng Nam Cao đã phát biểu những tuyên ngôn đầy sức thuyết phục, và ý nghĩa hiện đại, thời sự vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
Đọc văn Nguyên Hồng, độc giả cảm nhận được sự đồng cảm sâu sắc,thấm thía của nhà văn dành cho nhân vật. Dường như ta nghe rõ tiếng kêu thống thiết, nước mắt Nguyên Hồng tuôn trào khóc cho bất hạnh của nhân vật. Trái lại, ấn tượng ban đầu của bạn đọc khi tiếp xúc với truyện của Nam Cao, là một giọng lạnh lùng, tỉnh táo, sắc lạnh. Nhưng rồi độc giả lại tinh ý nhận ra ẩn sau vẻ ngoài lạnh lùng là tình cảm yêu thương, chất trữ tình ngọt ngào của tác giả cho những đứa con tinh thần của mình.
Trước hết, giọng văn sắc lạnh, tỉnh táo xuất phát từ ngôn ngữ người kể chuyện. Có thể nhận xét không chủ quan rằng ngôn ngữ kể chuyện của nhà văn này có màu sắc khách quan lạnh lùng.Theo thống kê của nhà nghiên cứu Trương Thị Nhàn trong bài viết: Nhân vật “hắn” với một nét đặc trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật Nam Cao, tác giả đã thống kê có tới 20 truyện của Nam Cao( trong số 55 truyện) các nhân vật được nhà văn gọi là “hắn”. Khi nhà văn gọi nhân vật là “hắn”, thì sắc thái tình cảm không còn là trung tính. Bởi vì, nhà văn đã tạo ra một tư cách “hắn” trong các nhân vật “hắn”. Các nhân vật ấy có gì đó biến dạng tha hóa… Một số nhân vật khác, chỉ riêng cách đặt tên đã hiện ra một khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật. Các tên rất khó nghe như Chí Phèo,Trạch Văn Đoành, Trương Rự,… Phải chăng đó là khuynh hướng hiện thực nghiệt ngã trong sáng tác của Nam Cao?
Đáng lưu ý là, câu chuyện của tác giả không chỉ kể chuyện, mà còn là kể tâm trạng, và đây lại là đặc điểm nổi trội trong sáng tác của Nam Cao. Chính sự kết hợp giữa kể chuyện và tả tâm trạng, văn Nam Cao đã hình thành phong cách có vẻ đối nghịch giữa hai đặc điểm:Tỉnh táo sắc lạnh và chan chứa trữ tình.
Đọc truyện “Chí Phèo”, giọng lạnh lùng khách quan của câu chuyện hiện ra ngay từ đầu tác phẩm. “Hắn vừa đi vừa chửi”. Cuộc đời của nhân vật này có lúc đặt chân vào phần “con” nhiều hơn phần “người”. “ Có lẽ hắn cũng không biết rằng, hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng…”. Dọc suốt câu chuyện “Chí Phèo”, dễ thấy một giọng lạnh lùng, một thái độ sắc lạnh, thiếu thiện cảm của người kể chuyện khi kể về nhân vật. Tuy nhiên, sở trường của Nam Cao là kể tâm trạng. Một người “chưa bao giờ tỉnh táo để biết rằng hắn trên đời”, nhưng chiều sâu nội tâm của nhân vật được cây bút tài hoa khám phá và kể tâm trạng thật tinh tế. Đoạn tả Chí Phèo với cảm giác lần đầu nếm hương vị của cháo hành, hương vị của tình yêu, thật chính xác mà đầy chất thơ. Rồi ý nghĩ của Chí nhớ lại những ngày “nhục hơn là thích” ở nhà bà Ba… Diễn biến tâm lý Chí Phèo trong một buổi sáng nhớ ra mình “có ở trên đời” được tác giả Nam Cao “giải phẫu” thật logic, biện chứng…
Vẫn cách gọi “hắn”, “thị”, “y” nhưng ẩn đằng sau câu chữ là lời kể, là một sự trân trọng tin yêu đối với nhân vật. Nếu không có niềm tin, không thấu hiểu bản chất người nông dân, làm sao tác giả viết được câu: “Trời ơi! Hắn them lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Đọc những câu văn như vậỵ, người đọc tinh ý nhận ra ngọn lửa hoàn lương vẫn còn âm ỉ trong tâm hồn con người bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính ấy. Tác giả đã khéo léo gợi ra lòng độc giả “cả phần lí trí lẫn phần tình cảm”.
Hai đặc điểm đối nghịch, bề ngoài lạnh lùng- bên trong trữ tình trong truyện của Nam Cao còn xuất phát từ lối kể chuyện bằng chất giọng: “nghiêm nghị và hài hước, trân trọng nâng niu,và nhạo, đay, mỉa”. Bạn đọc dễ nhận ra cái giọng mỉa mai, nhạo báng pha hài hước của văn xuôi Nam Cao, song độc giả tinh ý sẽ nhận ra thái độ nghiêm túc, sự tin tưởng vào phần tốt đẹp cảu con người hay khả năng tự nhận thức rất cao của người tri thức.
Nếu Thạch Lam đi tìm cái đẹp để khám phá và phát hiện; Vũ Trọng Phụng mổ xẻ đến tận cùng cái ung nhọt đến mức cực đoan; Khái Hưng Nhất Linh nhiều lần thi vị hóa… thì Nam Cao thể hiện ngòi bút tỉnh táo, đúng mực. Xuất phát từ nhận thức hiện đại về con người, hướng tới vẻ đẹp nhân văn đích thực của con người, truyện ngắn và truyện dài của Nam Cao mạnh dạn đi vào tận cùng các cực đối lập trong nhân tính, tâm hồn con người. Tạo ra những tình huống, những hoàn cảnh thử thách nhân vật, truyện của Nam cao không ít lần làm người đọc phấp phỏng bởi hoài nghi vào niềm tin của nhà văn này vào con người.
Quả vậy, đọc những trang văn trong các tác phẩm như “Chí Phèo”, “Đời Thừa”… ta thấy các nhân vật của Nam Cao vận động trượt dốc theo hướng từ con người dần dần đi đến giáp ranh của con vật hay hành trình ngược lại. Đương nhiên trong các nhân vật lưỡng hóa ấy, Chía Phèo là nhân vật tiêu biểu nhất. Trong Chí Phèo có sự vận động ngược và xuôi chiều như vậy. Bởi Chí Phèo đã sống trong môi trường “ là một thế giới chứa đựng hai khả năng dành cho con người”. Xã hội thực dân nửa phong kiến mà cụ thể là Bá Kiến và nhà tù thực dân đã biến một anh canh điền hiền lành thành một “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. NamCao đã dung vài nét để phác họa hình hài bản chất “ con” trong con người Chí Phèo: “Hắn biết đâu hắn đã phá biết bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc…”. Như vậy, ở Chí Phèo có quá trình lưỡng hóa giữa lương thiện và lưu manh, giữa người và vật.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247