Chiếc nón lá xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỉ thứ 13, tức là vào đời nhà Trần. Từ đó đến nay, nón luôn gắn bó với người dân Việt Nam như là hình với bóng. Không phải là đồ vật phân biệt giới tính, tuổi tác và địa vị… nón luôn đi theo như người bạn đường che nắng che mưa cho mọi hành trình. Phải chăng như vậy mà nón đã từ lâu trở thành biểu tượng cho đất nước con người Việt Nam?
Trước hết, nón là một đồ dùng rất "thực dụng". Nó dùng để che mưa nắng. Nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh dẻ hơn… tất cả đều để che chắn che mưa. Dù nón có nhiều loại, song nét đặc thù chung của nó là rộng vành (để chống nóng) và có mái dốc (để thoát nước nhanh, che mưa). Ngoài chức năng ứng phó với môi trường tự nhiên, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm đẹp, làm duyên cho người phụ nữ và phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của người Việt: đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ…
Người ta đội nón lá làm đồng, đi chợ, chơi hội. Tiễn cô gái về nhà chồng, bà mẹ đặt vào tay con chiếc nón thay cho bao nhiêu lời nhắn gửi yêu thương… Chiếc nón gợi nguồn cảm hứng cho thơ, cho nhạc. Đã có hẳn một bài về hát về nón: "Nón bài thơ, em đội nón bài thơ, đi đón ngày hội mở"… Giữa những kênh rạch, sông nước chằng chịt ở miệt vườn Nam Bộ, ai đó đã phải ngẩn ngơ vì: "Nón lá đội nghiêng tóc dài em gái xõa". Chiếc nón còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần: "Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón lá nghiêng che…". Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội nón với cái quai mầu tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển, làm yên lòng người ra trận…
Nón lá thường được đan bằng các loại lá, cây khác nhau như lá cọ, rơm, tre, lá cối, lá hồ, lá du quy diệp chuyên làm nón v.v. Có hoặc không có dây đeo làm bằng vải mềm hoặc lụa để giữ trên cổ.
Nón lá thường có hình chóp nhọn hay hơi tù, tuy vẫn có một số loại nón rộng bản và làm phẳng đỉnh. Nón lá có nhiều loại như nón ngựa hay nón Gò Găng (sản xuất ở Bình Định, làm bằng lá dứa, thường dùng khi đội đầu cưỡi ngựa), nón quai thao (người miền Bắc Việt Nam thường dùng khi lễ hội), nón bài thơ (ở Huế, là thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hoặc một vài câu thơ), nón dấu (nón có chóp nhọn của lính thú thời phong kiến); nón rơm (nón làm bằng cọng rơm ép cứng); nón cời (loại nón xé te tua ở viền); nón gõ (nón làm bằng tre, ghép cho lính thời phong kiến); nón lá sen (còn gọi là nón liên diệp); nón thúng (nón là tròn bầu giống cái thúng, thành ngữ "nón thúng quai thao"); nón khua (nón của người hầu các quan lại thời phong kiến); nón chảo (nón mo tròn trên đầu như cái chảo úp, nay ở Thái Lan còn dùng).v.v.
Đối với người phụ nữ Huế chiếc nón bài thơ luôn là một người bạn đồng hành. Trong cuộc sống thường nhật, chiếc nón đối với người phụ nữ Huế rất thân thiết. Chiếc nón không chỉ có chức năng che mưa che nắng, mà người phụ nữ Huế còn dùng nó để làm đồ đựng, phương tiện quạt mát và cao hơn hết là chức năng làm đẹp, góp phần làm tăng thêm nét duyên dáng phụ nữ Huế.
Giờ đây chiếc nón lá được phổ biến khắp đất Việt Nam là nét đặc trưng văn hóa riêng của đất nước. Khi người ngoại quốc nào đến Việt Nam cũng muốn có trong hành lí của mình vài chiếc nón làm quà khi về nước
Hic có vẻ hơi dài...
BÀI LÀM
“Em che nghiêng nón lá, chân rụt rè, qua nhịp cầu tre…”
Không biết tự bao giờ, chiếc nón lá đã đi vào nhiều bài thơ, bài ca của người Việt Nam. Với vẻ đẹp thanh mảnh, nhẹ nhàng cùng với tà áo dài thướt tha bay trong gió, tôn nét đẹp duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam. Là biểu tượng của vẻ đẹp kín đáo, trang nhã và thanh lịch, biểu tượng cho nét văn hóa của con người trên mảnh đất hình chữ “S” này.
Nón lá là loại nón đội đầu truyền thống của dân tộc ta, dùng để che nắng, che mưa và có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên tháp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 - 3000 năm trước công nguyên. Nón lá gắn liền với đời sống lao động tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng của người phụ nữ và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ. Chiếc nó còn hướng tới mục đích làm đẹp. Khi cuộc sống hiện đại hơn thì các giá trị gần gũi, thân thuộc lại được nhiều người tìm đến và muốn đưa chúng vào ngôi nhà thân yêu. Nắm bắt được mong muốn đó các kiến trúc sư đã đưa những thứ rất thân thuộc vào các thiết kế nội thất. Trong đó, nón lá đang là sự lựa chọn rất được yêu thích hơn tất cả. Ta có thể sử dụng nón lá làm vách ngăn, làm đồ trang trí trên tường hay đèn trang trí,... tạo không gian ấm áp. Ngoài ra, nón lá còn được trang trí ở những nơi như quán ăn, khu vui chơi, phòng trà… để tạo điểm nhấn cho không gian. Trải qua những năm tháng đấu tranh ác liệt nghề làm nón vẫn còn được giữ đến ngày nay. Nón Việt Nam thường được làm từ loại khác nhau như lá cọ, lá buông, rơm, tre, cói, hồ,… nhưng chủ yếu làm từ lá nón. Nón có hình chóp nhọn, vành rộng dùng để che nắng, che mưa mái dốc để thoát nước. Quai nón thường được làm bằng lụa mềm, nhưng quàng qua cổ để cho chắc chắn, cũng có một số loại nón rộng bạc và làm phẳng đều. Những người thợ làm nón cũng phải có sự khéo léo, tỉ mỉ vì nón được làm thủ công. Người ta chặt lá nón không quá già cũng không quá non, lá nón có hình nan quạt, nhiều lá đơn chưa xòe ra hẳn, đem phơi khôi rồi trải tiếp vào sương đêm cho bớt độ giòn, mở lá từ đầu tới cuống, cắt bỏ phần cuối cùng, gia công cho lá phẳng, đều và đẹp, nổi lên những đường gân lá. Những cái lá đẹp nhất để làm phần ngoài của nón. Khung làm nón hình chóp có 6 cây, sườn chính khoảng cách giống nhau, khung phải do thợ chuyên môn làm, phải đúng cỡ thì mới lợp lá trên nón ra mới dễ dàng. Mỗi chiếc nón người ta thường dùng 2 – 3 ở lớp lá, nón bài thơ mỏng, nhẹ chỉ dùng 2 lớp lá ở trong chèn hình ảnh và các câu thơ, nón thường được độ bền lâu hơn dày 3 lớp, phần trong có thêm lớp lá. Dùng sợi cước khâu theo vành nón. Nón được khâu xong hơ lên diêm danh cho trắng và không bị mốc, chằng xong nón tháo ra khỏi khung, cắt lá thừa vừa miệng nón để cho tròn đều. Để làm quai đường kính nón thường rộng 4mm người ta phết dầu trong suốt vừa để làm đẹp, vừa để cho nước mưa thấy qua cổ kim thấm vào bên trong. Để có được một chiếc nón, người làm nón phải trải qua mười lăm mũi khâu từ lúc lên rừng hái lá đến sấy,.. làm nón là cả một nghệ thuật. Nón lá rất dễ bảo quản, dễ dùng. Nón dùng được lâu dài người ta phải để nơi râm mát không chèn vật nặng khiến nón bị biến dạng. Nón lá có rất nhiều loại khác nhau như: nón ngựa, nón quai thao nón, nón cời, nón lá sen, nón rơm, nón gõ,… nhưng đặc sắc là nón bài thơ của xứ Huế, một thứ nón mỏng nhẹ đẹp, thanh thoát. Một số vùng làm nón nổi tiếng trên đất nước như: nón Ba Đồn (Quảng Bình), nón làng Chuông (Thanh Oai). Từ xa xưa chiếc nón lá là người bạn thân thiết che nắng, che mưa cho các bà mẹ, nón lá còn được dùng để đựng quà, bánh. Nón đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ con người, tôn vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong ngày lễ, ngày hội. Còn dùng làm quà tặng cho khách du lịch đến Việt Nam, nón lá còn làm dụng cụ để biểu diễn nghệ thuật. Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện tính dịu dàng, mềm mại và kín đáo của người phụ nữ Việt Nam. Các cô nữ sinh đi học đều có chiếc nón lá theo kèm. Nó có rất nhiều công dụng đối với các cô gái ấy. Nón che nắng, che mưa. Nón che ngực, che thân những khi thẹn thùng bởi ánh mắt của các chàng trai. Rồi có lúc nón cũng dùng để đựng me, đựng mận khi các cô đi chơi vườn cây. Nón cũng được phe phẩy đem gió mát đến cho các gương mặt đang ửng hồng vì nóng. Cùng với chiếc áo dài, nón lá là vật dụng gắn bó mật thiết với người phụ nữ Việt Nam. Từ trong thơ ca, âm nhạc, hội hoạ cho đến điện ảnh, chiếc nón đã trở thành một thứ ngôn ngữ riêng giúp biểu đạt hình tượng và cả tâm tư của người phụ nữ. Nón lá có ở 3 miền nhưng với Huế thì chiếc nón đã trở thành biểu trưng cho vẻ đẹp, sự dịu dàng, thanh mảnh, duyên dáng của người phụ nữ Huế. Nghề nón ở Huế xuất hiện tự bao giờ, “ai là tổ của nghề này”... những câu hỏi ấy ngay cả các bậc cao tuổi nhất trong nghề ở Huế hiện nay cũng đều không biết. Nhưng có một điều có thể khẳng định là nghề nón ở Huế có từ rất lâu rồi, bằng chứng là chiếc nón Huế đã đi vào ca dao, tục ngữ của xứ này. Nhiều người dân Huế đã thuộc nằm lòng những câu thơ phổ biến:
“Ai ra xứ Huế mộng mơ
Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”
Khung cảnh Huế mộng mơ, những con đường im mát, những cô gái Huế trong tà áo dài tha thướt đội nón bài thơ đã trở thành một trong những hình ảnh đẹp tượng trưng của Huế. Hình ảnh ấy đã tác động đến đời sống nghệ thuật của mảnh đất này. Chiếc nón lá không chỉ xuất hiện trong thơ ca, nhạc, mà còn trong cả hội hoạ. Với vài nét phác hoạ hình chiếc dải nón hay dáng hình chóp màu trắng xa mờ, vành nón nghiêng nghiêng là người xem đều hiểu ấy là hình tượng người con gái, ấy là nón Huế. Nón lá còn là nguồn cảm hứng của thi ca nhạc hội từ xa xưa:
“Qua đình ngả nón”
Đến thơ hiện đại:
“Quê hương là cầu tre nhỏ,
Mẹ về nón lá nghiêng che”
Cùng với tà áo dài thướt tha là biểu tượng duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam. Xã hội ngày càng có nhiều loại nón mũ mới ra đời nhưng chiếc nón lá vẫn giữ nguyên được giá trị của nó trở thành một trong những niềm tự hào của nền văn hóa dân tộc.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 8 - Năm thứ ba ở cấp trung học cơ sở, học tập bắt đầu nặng dần, sang năm lại là năm cuối cấp áp lực lớn dần nhưng các em vẫn phải chú ý sức khỏe nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247