Trang chủ Ngữ văn Lớp 10 So sánh nhà Nho truyền thống và nhà Nho tài...

So sánh nhà Nho truyền thống và nhà Nho tài tử. Giúp với ạ. câu hỏi 1423037 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

So sánh nhà Nho truyền thống và nhà Nho tài tử. Giúp với ạ.

Lời giải 1 :

Khái niệm “Nhà nho tài tử” là một trong những khái niệm then chốt trong các tiểu luận về nho giáo và văn học trung cận đại Việt Nam của GS.Trần Đình Hượu như: Vấn đề xuất xử của nhà nho và sự phát triển trong thơ Tam Nguyên Yên Đổ; Văn chương Ông già Bến Ngự;  Tản Đà – đấng “trích tiên”, cái Trang Tử đa dục chán đời và lạc lõng trong xã hội tư sản; Về nội dung tính giáo thời khi nghiên cứu sáng tác của Tản Đà; Quan niệm văn học của Tản Đà…(1) . Khái niệm ấy được kế thừa từ người thầy của ông là nhà nghiên cứu Nguyễn Bách Khoa – Trương Tửu. Nguyễn Bách Khoa trong công trình Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Tạp chí Văn mới xuất bản, Hà Nội, 1944) lần đầu tiên dùng khái niệm “người tài tử”, “nhà nho tài tử”. Ông viết:

“Quan niệm “cầm kỳ thi tửu” là một quan niệm tài tử. Bằng danh từ này người ta thường chỉ thị hạng nho sĩ lơ đãng với công việc kinh bang tế thế (hành đạo) mà thiên trọng về văn học, về sự vui sống cầu kỳ (hành lạc). Đỗ Phủ, Lý Bạch, Lưu Linh…là những nhà nho tài tử vậy. Họ không sống cho Tổ quốc, không sống vì đạo lý. Họ sống cho họ, sống vì nghệ thuật, sống vì đẹp. Suốt đời họ chỉ tìm cái đẹp. Cái ý vị của cuộc sống, theo quan niệm tài tử, không phải ở chỗ phụng sự mà là ở chỗ hưởng thụ, ở uống rượu, ở làm thơ, ở gẩy đàn, ở đánh cờ, ở giăng gió, ở sông núi. Nếu không biết thưởng thức những trò chơi ấy một cách mỹ thuật thì dù có sống đến nghìn tuổi cũng như là chết non mà thôi (thiên tuế diệc vi thương)”(2) .

Tuy nhiên Trương Tửu chưa đi sâu vào khái niệm này, nhận thức của ông cũng còn chưa rõ, ông vẫn nhấn mạnh vào phẩm chất “chơi”, hứng thú với cái  đẹp, và vì vậy vẫn còn lẫn giữa cái chơi phóng nhiệm của ẩn sĩ với cái chơi mang ý thức cá nhân. Giáo sư Trần Đình Hượu là người kế thừa và phát triển quan niệm “nhà nho tài tử” của Trương Tửu. Theo tôi, Trần Đình Hượu đã có những đóng góp cơ bản sau đây:

-       Xác định rõ ràng tính lịch sử của khái niệm “nhà nho tài tử”, coi nhà nho tài tử như là sản phẩm của xã hội đô thị phong kiến phương Đông , vì vậy nó gắn liền với ý thức cá nhân.

-       Xác định nội hàm khái niệm “nhà nho tài tử”, trong đó ông đặc biệt nhấn mạnh phẩm chất Tài Tình bên cạnh tính chất “chơi”, yêu cái đẹp mà Trương Tửu đã nói đến. Ông đối lập một cách rõ ràng kiểu nhà nho tài tử với nhà nho hành đạo, và rộng hơn là nhà nho chính thống (nhà nho chính thống bao gồm nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật). Ông cho rằng nhà nho tài tử nhấn mạnh ở: Tài Tình (cái tôi cậy tài, đa tình) còn nhà nho chính thống thì nhấn mạnh ở Đức.

-       Đưa “nhà nho tài tử” thành khái niệm chìa khóa có tính thao tác luận để nghiên cứu một số hiện tượng văn học trung cận đại Việt Nam như: Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Phan Bội Châu, Tản Đà…

Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương là người kế thừa và làm rõ hơn quan niệm của thầy – GS. Trần Đình Hượu trong luận án tiến sĩ, sau đó xuất bản thành sách, đó là cuốn: Loại hình tác giả văn học nhà nho tài tử trong văn học Việt Nam (NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1995).

Kế thừa các công trình nghiên cứu trên, đồng thời tìm hiểu rộng ra văn học các nước Đông Á: Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên - Hàn Quốc, chúng tôi hệ thống hóa và phát triển quan niệm nghiên cứu trên về nhà nho tài tử như dưới đây.

2.     NHÀ NHO TÀI TỬ TRONG LỊCH SỬ

Khái niệm “Tài tử” đầu tiên xuất phát từ Trung Quốc.

Từ điển Từ nguyên giải thích: “Tài tử là từ chỉ những người giỏi ở tài hoa” (Ưu ư tài hoa giả chi xưng). Dẫn Văn tuyển, Phan Nhạc Tây chinh phú: “Giả Sinh, Lạc Dương chi tài tử” (Giả Sinh là người tài tử ở Lạc Dương).

Từ điển Từ hải giải thích hơi khác một chút: “Gọi những người có tài là tài tử” (Ưu ư tài giả xưng tài tử). Từ hải cho biết từ “Tài tử” đã có từ sách Tả truyện thời Chiến quốc: Tả truyện, Văn thập bát niên viết: “Họ Cao Dương có 8 người tài tử”. Vào đời Đường, từ “tài tử” xuất hiện phổ biến hơn. Trong Đường thư, Nguyên Chẩn truyện có viết: “Nguyên Chẩn giỏi làm thơ, thường sáng tác nhạc phủ, trong cung người ta gọi ông là Nguyên Tài Tử”.

Trong lịch sử Trung Quốc, từ “tài tử” được dùng khá nhiều, nhất là từ đời Đường trở đi.

Đời Đường có “Đại Lịch thập tài tử” (Mười người tài tử thời Đại Lịch (766-799): gồm có Lư Luân, Tiền Khởi và 8 người khác. Thơ ca của họ phần nhiều là xướng họa, ngâm vịnh sơn thủy, ca ngợi thú ẩn dật. Về nghệ thuật, các tác giả này sở trường ở ngũ ngôn luật thi, thiên về kỹ thuật cầu kỳ, có khuynh hướng hình thức chủ nghĩa.

Đời Minh có “Giang Nam tứ đại tài tử” (còn gọi Ngô trung tứ tài tử, tức Bốn tài tử vùng Giang Nam), gồm có Văn Trưng Minh, Chúc Duẫn Minh, Từ Trinh Khanh và Đường Bá Hổ. Cả bốn đều giỏi về hội họa, thư pháp, thơ văn với mức độ khác nhau. Trong số này thì Đường Bá Hổ là người học giỏi, thi  đậu cao, làm quan lớn. Nhìn chung cả bốn vị tài tử Giang Nam này đều có tính tình phóng túng, ngông nghênh, khinh bạc.

Bên cạnh dùng “Tài tử” để chỉ người, ở Trung Quốc còn dùng khái niệm ấy để chỉ loại sách – sách tài tử như “Lục tài tử thư”, “Thập tài tử thư”…

“Lục tài tử thư” lần đầu tiên được Kim Thánh Thán (1608-1661) nhà phê  bình văn học nổi tiếng cuối đời Minh đầu đời Thanh đưa ra, bao gồm: 1) Nam hoa kinh của Trang Tử, 2) Ly tao của Khuất Nguyên, 3) Sử ký của Tư Mã Thiên, 4) Đỗ thi tức thơ Đỗ Phủ, 5) Thủy hử truyệncủa Thi Nại Am, 6) Tây Sương ký của Vương Thực Phủ. Nhìn danh sách trên ta thấy: Nam hoa kinh là sách thể hiện tư tưởng Lão Trang, văn chương bay bổng, tưởng tượng phong phú, vượt ra khỏi vòng cương tỏa. Ly tao là tập thơ mang đầy yếu tố thần linh, kỳ lạ của văn hóa Hoa Nam. Sử ký của Tư Mã Thiên vừa là văn, vừa là sử, mang nhiều yếu tố “quái lực loạn thần” mà Khổng Tử không thích. Thơ Đỗ Phủ với tâm sự cá nhân, giọng  thơ bi ai, phẫn uất, không phải luôn luôn được giới phê bình chính thống đề cao. Còn Thủy hử là tiểu thuyết về các “loạn thần”, Tây sương ký là văn nghệ diễm tình của giới thị dân. Nhìn chung Lục tài tử thư là những tác phẩm thiên về văn nghệ, có tính chất phi chính thống, rất khác với “Văn thống” Trung Hoa mà các nhà nho Trung Quốc thường đề cao, như Kinh Thi, văn của Khổng Tử, Hàn Dũ, Chu Hy.

Từ “Lục tài tử thư” người ta còn mở rộng ra thành “Thập tài tử thư”, bao gồm: 1) Tam quốc diễn nghĩa, 2) Hảo cầu truyện, 3)Ngọc Kiều Lê, 4) Bình Sơn Lãnh Yến, 5) Thủy hử truyện, 6) Tây sương ký, 7) Tỳ bà ký, 8) Hoa tiên ký, 9) Trảm quỷ ký, 10) Tam hợp kiếm. Như vậy “Thập tài tử thư” chỉ còn là tiểu thuyết, chủ yếu là tiểu thuyết tài tử giai nhân, còn lại một vài cuốn là tiểu thuyết có tính chất lịch sử. 

Như vậy, ở Trung Quốc khái niệm “Tài tử” xuất hiện từ rất sớm – từ thời Chiến quốc, trải qua thời Hán, Ngụy, Lục Triều và Đường, ý nghĩa của nó cũng thay đổi, nhưng tựu trung lại nó vẫn mập mờ giữa 2 nghĩa: “Tài năng” và “Tài hoa”.

Ở Việt Nam, chúng tôi chưa có điều kiện khảo sát đầy đủ xem chữ “Tài tử” xuất hiện lần đầu tiên trong sách nào, theo như phỏng đoán của chúng tôi: trong thơ văn Lý Trần chưa thể xuất hiện khái niệm “tài tử”, khái niệm ấy chỉ có thể xuất hiện trong các loại sách có tính chất tiểu thuyết kiểu như Truyền kỳ mạn lục (thế kỷ XVI) hay trong các tác phẩm sớm hơn một chút. Tuy nhiên thời đại của từ “Tài tử” là Hậu kỳ trung đại, tức là từ thế kỷ XVIII trở đi. Tài tử thường gắn với loại tác giả thích cầm kỳ thi họa, sống ngoài vòng cương tỏa, ngông nghênh “khinh thế ngạo vật”.  

Trong thơ Hồ Xuân Hương đã bắt đầu có sự phân biệt rõ người tài tử với hiền nhân quân tử. Xuân Hương yêu người tài tử mà chế diễu mỉa mai người quân tử:

Hiền nhân quân tử ai mà chẳng

Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo

                                                (Đèo Ba Dội)

Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt

Đi thì cũng dở ở không xong

                                                (Thiếu nữ ngủ ngày).

 Còn với người tài tử thì mời gọi:

Tài tử văn nhân ai đó tá

Thân này đâu đã chịu già tom.

                                                            (Tự tình)

“Tài tử” trong hát nói về thú cầm kỳ thi họa của Nguyễn Đức Nhu:

Giang sơn bất thiếu tài hoa khách

Mỗi người một cách phong hoa

Rượu Lưu Linh, thơ Lý Bạch, cờ Đế Thích, đàn Bá Nha           

Đủ trò thú mới là người tài tử

Chơi thì chơi chẳng chơi thì chớ

Đã chơi cho lệch đất long trời

Tiếng thị phi gác để ngoài tai

Trên cõi thế mấy người là tri kỷ?(...)(3)

“Tài tử đa cùng” trong bài phú của Cao Bá Quát. Người tài tử hành lạc tràn ngập trong thơ Nguyễn Công Trứ, tài tử, cặp đôi với giai nhân:

Minh quân lương tướng tao phùng dị,

Tài tử giai nhân tế ngộ nan.

Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên,

Trong phút chốc tình duyên như đã.

                                                                       (Duyên gặp gỡ)

Mộng Liên Đường chủ nhân trong bài tựa Truyện Kiều đã ý thức rất rõ về người tài tử, tài tử gắn với tài tình: « Thuý Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một: người đời xưa thương người đời trước, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thực là một cái thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời này vậy. »

Như vậy khái niệm « người tài tử » là một khái niệm có thật trong lịch sử, nhà nghiên cứu Nguyễn Bách Khoa Trương Tửu đã phát hiện và sử dụng nó để nghiên cứu một hiện tượng rất tiêu biểu của văn chương tài tử là Nguyễn Công Trứ. Kế thừa tư tưởng đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu đã khảo sát khái niệm này về phương diện lịch sử, nâng nó lên thành một khái niệm có tính phổ quát, một từ khóa để hiểu văn chương của một loại hình nhà nho đặc biệt: nhà nho tài tử. Nội hàm khái niệm này, chúng tôi đúc kết, hệ thống hóa  như mục dưới đây.   

Thảo luận

-- à láo hè

Lời giải 2 :

so sánh giữa nho truyền thống với nho tài tài tử như là đối với nho truyền thống nói về những người tài giỏi về sử sách nhưng đối lập hoàn toàn thì nho tài tử lại là trong văn hoá hiện đại tức là dành cho ng về nghệ thuật ( diễn viên ,ca sĩ , hài kịch ...) hay dùng để chỉ những ng ko chuyên 

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247