* Bn tham khảo nha*
Vẻ đẹp của Huấn Cao thể hiện ở ba phẩm chất sau:
- Tài hoa;
- Khí phách hiên ngang bất khuất;
- “Thiên lương” trong sáng.
+ Muốn phân tích được nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao, cần đặt hình tượng này trong quan hệ với hai nhân vật khác trong truyện: người quản ngục và viên thơ lại. Cả ba đều là những con người đặc biệt, những đốm sáng trong bóng tối nhà tù, hay nói như tác giả, là những “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Cố nhiên Huấn Cao là thanh âm trong trẻo nhất, là đốm sáng chói lọi nhất. Nhưng phải có mặt hai nhân vật kia để làm tôn thêm vẻ đẹp rực rỡ của hình tượng người tử tù - nhân vật chính của tác phẩm.
+ Huấn Cao là một con người tài hoa khác thường, ông viết chữ rất đẹp. Đây là viết chữ Hán và là một nghệ thuật gọi là thư pháp của người xưa. Người ta treo chữ đẹp (hoặc viết trên lụa, hoặc khắc trên gỗ phủ sơn mài) trong nhà, nơi trang trọng nhất như treo những bức họa quý.
+ Tài viết chữ của Huấn Cao như thế nào, cứ xem thái độ của người quản ngục thì rõ: “Biết đọc vở nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (...) có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời”. Tất nhiên, chữ ông Huấn Cao phải đẹp lắm, quý lắm thì người quản ngục và viên thơ lại mới phải kiên trì và dụng công đến như thê trong cách đối xử “biệt nhỡn” đối với ông để mong được ông cho chữ. Mà đâu phải chỉ có kiên trì và công phu. Còn phải dũng cảm nữa. Bởi vì biệt đãi một tên tử tù là một hành vi rất nguy hiểm. Hành vi này sẽ phải trả giá rất đắt nếu bị bại lộ.
+ Huấn Cao cũng là một con người có khí phách khác thường. Một tử tù chỉ đợi ngày chết chém mà không hề tỏ ra nao núng, vẫn ung dung đường hoàng. Phẩm chất này của Huấn Cao cũng được làm nổi rõ trong quan hệ với viên quản ngục. Viên quan coi tù này hoàn toàn có quyền dùng những thủ đoạn tàn bạo đối với ông, nhưng ông chẳng những không sợ mà còn “cố tình làm ra khinh bạc đủ điều”. Ngục quan vào gặp ông trong nhà giam “khép nép” hỏi: “Ngài muốn gì xin cho biết. Tôi sẽ liệu”, ông trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”.
Nhưng quản ngục chẳng những không nổi nóng mà còn tỏ ra kính nể hơn nữa, bởi vì “y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”.
+ Tuy nhiên Huấn Cao không phải là con người có trái tim bằng thép. Đúng là tiền bạc và quyền thế không lung lạc được ông. Về việc cho chữ cũng vậy, ông nói: “Ta không vì vàng ngọc hay quyền thể mà ép mình viết bao giờ”. Cho nên khi tưởng rằng người quản ngục trong cái trại giam này cũng giống như mọi tên quản ngục khác, nghĩa là kẻ đại diện thô bạo của quyền lực phi nghĩa, thì ông tỏ ra hết sức cứng rắn. Nhưng khi hiểu rằng đây là một tâm hồn trong sáng lạc vào giữa đám người “cặn bã”, ông liền thay đổi thái độ. Hóa ra con người ấy cũng có lúc mềm lòng: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Và ông sẵn sàng cho chữ ngục quan - dòng chữ cuối cùng của một đấng tài hoa và một bậc anh hùng nghĩa sĩ.
- Thiên truyện của Nguyễn Tuân kết thúc bằng một cảnh tượng tác giả gọi là “xưa nay chưa từng có ở chốn lao tù”.
“Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ (...) Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh (...) Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực (...) Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo:
- Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn rõ ràng đến thế.
Đoạn văn đã sử dụng thành công bút pháp đối lập: đối lập ánh sáng và bóng tối, cái đẹp và sự bẩn thỉu hôi hám.. Và người tử tù, tuy cổ đeo gông, chân vướng xiềng, nhưng tư thế thì hiên ngang lồng lộng trước sự khúm núm đầy cảm phục của người quản ngục. Đó là sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương kết tinh cao độ ở hình tượng lẫm liệt của Huấn Cao đối với bóng tối, sự nhơ bẩn của một xã hội phi nghĩa.
Và khi người quản ngục vái người tù một cái, chắp tay nghẹn ngào nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” thì không phải chỉ là tạ ơn người ta cho chữ mình mà là vái một nhân cách đẹp: vẻ đẹp của tài hoa, của khí phách anh hùng và của thiên lương trong sáng cao cả.
Nguyễn Tuân, một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam; có những sang tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như chiếc ấm đất”, chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phầm Chữ người tử tù”.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng của Cao Bá Quát vớI văn chương vô tiền Hán”, còn nhân cách thì một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” làm nguồn cảm hứng sang tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sang ngời và rất đỗI tài hoa. Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu đến tấm long trong sang của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao với tư cách là người nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết chữ. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách của con người. Chữ của Huấn Cao vuông lắm” cho thấy ông có khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, một báu vật trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn là chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn. Huấn Cao trong cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân thấp cổ bé họng”.Nếu như Huấn Cao phục tùng cho bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác : con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài bẻ khoá, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiếm có trên đời. Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lí của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang,kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỵch một cái” và lãnh đạm” khong thèm chấp sự đe doạ của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra khinh bạc”. Ông đứng đầu goong, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dùng cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời: Người hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây nữa thôi”.Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là…” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn cặn bã” của xã hội.Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý.Thế nhưng khi biết được nỗi lòng viên quản ngục, Húan Cao không nhữg vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt ra rằng : Ta cảm tấm lòng biệt nhãn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay quyền uy mà ép cho chữ bao giờ”.Hành động cho chữ viên quản ngụ chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang tàng với mình.Quay cảnh cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử từ cổ đeo gông, chân vướng xích” đang đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, tác giả Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa của con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người ca khuyên bảo con: Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành lắm rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện”. Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi’ Huấn Cao , người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xoá tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Xây dựng nhân vật Huấn Cao – kẻ sĩ tài tử, anh hùng – nhà văn Nguyễn Tuân vừa biểu lộ một tấm lòng kính phục, ưu ái đặc biệt, vừa thể hiện một bút pháp tài hoa, độc đáo tuyệt vời. Ngoài việc ca ngợi một con người tài tử, bất khuất, anh hùng, truyện "Chữ người tử tù" còn hàm chứa một ý tưởng sâu sắc: thương tiếc những tài năng bị hãm hại, khẳng định cái đẹp có một sức mạnh kì diệu không một thế lực tàn bạo nào có thể hủy diệt được. Cái đẹp của tài hoa, cái đẹp của thiên lương đã làm lung linh nhân cách kẻ sĩ Huấn Cao, để chúng ta ngưỡng mộ. Thấm thía biết bao bài học thiên lương ở đời. Sống vì thiên lương. Và chết cũng giữ trọn thiên lương. "Chữ người tử tù" là một truyện ngắn kiệt tác lung linh vẻ đẹp thiên lương.
*Chúc bạn học tốt! ^_^
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247