Trang chủ Ngữ văn Lớp 9 Tùy bút về người chiến sĩ.Mong mn giúp em với...

Tùy bút về người chiến sĩ.Mong mn giúp em với ạ câu hỏi 183730 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

Tùy bút về người chiến sĩ.Mong mn giúp em với ạ

Lời giải 1 :

Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng được ví như bản trường ca bất tận rừng già của sông Đà. Song song với hình tượng con sông Đà vừa dữ dội vừa dịu dàng ấy, là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà vừa hung hiểm vừa xinh đẹp.

Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này “Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”. Để thấy rằng cuộc sống mưu sinh trên dòng sông hùng vĩ kiêu ngạo ấy phải vất vả, gian lao biết mấy, có lẽ là nơi chỉ giành cho những chàng trai lực lưỡng trẻ khỏe, đủ can đảm mà chiến đấu với con sông mang tâm tình bất định “lúc van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, như một con thú với tiếng rống “như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…”. Ấy thế mà chẳng như chúng ta hằng tưởng tượng, người lái đò ấy lại là một ông lão, phải, là một ông lão đã tầm bảy mươi, ở độ tuổi thất thập cổ lai hi, với bao người là độ tuổi được an hưởng tuổi già, chứ chẳng phải lênh đênh kiếm kế mưu sinh trên sóng nước hiểm trở.

Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò đầy xuất sắc với hai vai trò nổi bật, vừa là một chiến sĩ can trường trên mặt trận sông nước với vũ khí duy nhất là mái chèo, vừa là một người nghệ sĩ tài hoa hằng ngày vẫn viết nên bản những bản hùng ca tuyệt đẹp về sức mạnh của những con người lao động. Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên sông Đà không dưới trăm lần, trong đó đã có tới 60 lần ông cầm lái chính. Hình ảnh ông lái đò Lai Châu hiện lên với một vẻ ngoài đầy phong sương, cơ thể in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…” đặc biệt trên ngực ông có nhiều “củ nâu” đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là “những huân chương lao động siêu hạng”.

Ông lái đò không phải là người an phận ngược lại ông thích đương đầu với hiểm nguy, khó khăn, với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những ghềnh thác khó nhằn của con sông Đà, ông bảo rằng: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dạy, chân tay dễ buồn ngủ”. Dù tuổi đã cao, nhưng ông luôn mang một tâm hồn trẻ khỏe, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, can trường, niềm tin yêu cuộc sống, cùng sự gắn bó với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của ông nghiễm nhiên trở thành niềm đam mê bất diệt, là niềm vui trong cuộc sống lao động vốn vất vả của ông. Chỉ bằng những nét khái quát như vậy, hình ảnh ông lái đò của Nguyễn Tuân đã để lại một dấu ấn sâu sắc, ấn tượng trong lòng độc giả. Sông Đà trong lòng ông lái đò như một bản thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng, thuộc đến “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, sự tài hoa, tỉ mẩn ấy được tác giả ví như “đóng đanh vào lòng”. Ông lái đò cũng nắm vững “binh pháp của thần sông thần núi”, như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại cũng như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go của mà ông đã theo đuổi gần hết đời người. Trong cuộc chiến không cân sức, giữa người lái đò lẻ loi, cùng con sông Đà hung bạo, nguy hiểm, ông lái đò như một người hùng cưỡi chiến mã, tay vung gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn thương độc mã phá vòng vây quân thù, chỉ khác mỗi điều mặt trận của ông là mênh mông sóng nước.

Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường, giảo hoạt của con sông, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì đến mạng cũng chẳng còn, nói gì đến chuyện làm một người nghệ sĩ tài hoa trên con sông Đà nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã đặt cho những khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất “nhà binh” và cũng đầy tính nghệ thuật là “trùng vi thạch trận”. Ông lái đò đã xuất sắc lần lượt vượt qua những cửa ải hung hiểm ấy một cách điêu luyện, mặc dù có những lúc đã bị thương, nhưng nỗi đau đớn ấy chẳng thấm vào đâu so với việc bị mất mạng. Bằng kinh nghiệm dày dạn và lòng dũng cảm, một tinh thần vững chãi cùng lòng tự tin đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, cũng hiểu rõ phải chống trả, tránh né làm sao để qua được ải đầu tiên, ông lái đò bước vào “trùng vi thạch trận thứ nhất” đầy căng thẳng. Có những lúc trúng đòn hiểm, đau đớn đến “mặt méo bệch đi”, nhưng ông làm sao dám buông lỏng, chỉ cố nhịn đau mà “kẹp chặt lấy cuống lái”, bình tĩnh vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất, thế là qua được một ải. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, ở trùng vi thạch trận thứ hai ông lập tức thay đổi chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”, không cho con sông Đà có một cơ hội phải kích nào.

Vòng thứ hai này có phần hung hiểm hơn trước khi “tăng thêm nhiều cửa tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn”. Thế nhưng cái bẫy đó cũng chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc “quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Ông ví lái đò qua khúc này như “cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng”, phải nắm đúng cái “bờm sóng” , rồi cứ thế “phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ngặt thay lại có một bọn đá định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, thì ông đò “vẫn nhớ mặt bọn này”, bọn thác đá vẫn không ngừng khiêu khích, nhưng chúng chỉ như đang làm trò hề trước mặt ông đò, bởi ông đã tự tin “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến”. Thế là xong nốt ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác. Nói nghe thì dễ đấy, nhưng có mấy ai đủ bình tĩnh và tay chèo điêu luyện để nhằm trúng vào cửa sinh như ông lái đò Lai Châu? Còn một ải cuối nữa, ải này “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ỏ chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”, mới nghe đã thấy khó khăn đủ bề, nhưng ông đò rất mạnh dạn “phóng thẳng thuyền, chọc thủng giữa cửa đó” ,“thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Vậy là qua hết cả ba ải, mà ải nào cũng nguy hiểm vô cùng, con sông lại trở về với vẻ thanh bình, lặng lẽ.

Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go, gay cấn của ông lái đò Lai Châu, ta cứ cảm tưởng mình vừa coi một bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây, mà ông lái đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng ngày chiến đấu vật lộn với thiên nhiên trong nguy hiểm trùng trùng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo. Đây là một cuộc chiến không cân sức, nhưng bằng sự thông minh, gan dạ, kiên cường bất khuất, con người lao động đã chế ngự, vượt lên trên cái sự khiêu khích, hằn học của thiên nhiên. Hình tượng ông lái đò được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sĩ anh hùng, quả cảm, vừa là người nghệ sĩ tài ba đã viết nên một bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà rộng lớn. Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, có phần tương đồng với một số tác giả như Nam Cao hay Nguyễn Huy Tưởng, ông cho rằng nghệ thuật không phải chỉ là những người nghệ sĩ với những hình tượng thơ mộng, mơ hồ cao xa như mây-trăng, gió-núi, mà người làm nghệ thuật còn là những người lao động, vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề nghiệp của mình thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật trong lao động. Bởi trong những con người ấy chất chứa cả một niềm đam mê sâu sắc, niềm tin yêu, luôn tìm cách sáng tạo, đột phá, tạo ra những cung đường mới mẻ cho nghề nghiệp của mình.

Hình tượng người lái đò sông Đà được xây dựng rất thành công qua ngòi bút độc đáo và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Trong hơi thở văn chương ấy, nhà văn đã khẳng định được tài năng và sức mạnh cường đại của con người, cuộc chiến không cân sức giữa con người lao động và thiên nhiên kỳ bí vốn có nhiều cam go, vất vả. Nhưng bằng sự thông minh, sáng tạo, đức tính kiên cường, tỉ mỉ vốn ăn sâu vào máu của những người lao động, họ đã chiến thắng một cách huy hoàng, vẻ vang nhất, trở thành người nghệ sĩ tài ba trên chính mặt trận tìm kế sinh nhai của mình.

Thảo luận

Lời giải 2 :

Tôi muốn viết về những người lính thời bình vẫn hi sinh thầm lặng cho cuộc sống ấm no của nhân dân, như truyền thống vẻ vang “vì dân” của Quân đội Việt Nam anh hùng.

Tôi sinh ra và lớn lên giữa thời đại hòa bình, lúc đất nước đã vượt qua thời bom đạn đầy đau thương mất mát và đi qua biết bao nhọc nhằn khó khăn của những ngày tháng bao cấp. Thời điểm mà những người lính tiếp tục cùng nhân dân xây dựng đất nước.

Hình ảnh người lính đem con chữ đến những bản làng nghèo xa xôi, thắp lên hi vọng và ước mơ cho những em nhỏ vùng cao, chia sẻ cùng nhân dân những nhọc nhằn, gian khó đã trở thành quen thuộc. Những chiến sĩ đang công tác nơi biên giới ấy, đa phần tuổi đời đều chẳng còn trẻ, vợ con chưa có, bố mẹ đã già, một năm được về phép vài ngày. Có những người mười mấy năm không còn biết đến không khí Tết nơi miền xuôi quê nhà, thoáng thấy những cánh đào lấm chấm nụ, lòng lại dâng lên nỗi nhớ nhà thao thiết.

Tuổi xuân của họ đã dành trọn cho Tổ quốc, nguy hiểm nơi rừng núi biên giới luôn rình rập, nhưng với họ, đáng sợ nhất lại là nỗi cô đơn. Sao tôi cứ hình dung về một nỗi buồn mênh mang khi chiều đông đến, có người lính đứng trên ngọn đồi nhìn xuống bản làng nhà cửa trù phú, khát khao một bữa cơm gia đình, một vòng tay yêu thương ấm áp.

Tôi biết đến những chiến sĩ đang ngày đêm miệt mài và âm thầm cống hiến. Dẫu bữa cơm còn đạm bạc, dẫu đêm đông giá buốt hay mưa gió sấm sét sáng lòa cả một vùng trời, họ vẫn vững vàng và kiên gan cống hiến. Ở nơi xa xôi ấy vẫn thấp thoáng màu hoa thược dược, đồng tiền, mười giờ rực rỡ. Họ trồng hoa, đun ấm chè như sẵn sàng cho bất kì người khách nào bất ngờ ghé thăm…

Ngoài trời đêm đã rất khuya, vẫn còn biết bao người lính đang thầm lặng bảo vệ và gìn giữ sự bình yên cho Tổ quốc. Là nơi đầu sóng ngọn gió ngoài biển Đông, là nơi địa đầu đất nước, là nơi biên giới xa xôi, vẫn có những người lính âm thầm đã ngã xuống, ngay cả trong thời bình. Không còn đạn lạc, chẳng có sốt rét rừng, có những người lính vẫn hi sinh vì cứu một em nhỏ giữa dòng nước lũ, vì bảo vệ một hòn đảo mỗi khi triều lên là chìm sâu trong nước, vì đuổi bắt tội phạm giữa đêm khuya… Trước đây tôi chưa bao giờ hình dung được hiện thực tàn khốc đến nhường ấy, mà giờ đây, khi đứng trước vong linh các chiến sĩ trẻ, lại cảm thấy như chạm vào nơi đau thương nhất của cuộc đời.

Tháng 12 nơi mùa đông miền Bắc gió lạnh tê người, tôi bắt gặp người phụ nữ trẻ, người trở dạ, bố mẹ ở quê xa chưa lên kịp, chồng là bộ đội, cô một mình tự bắt taxi đến bệnh viện. Nhìn ánh mắt cương quyết và nỗi đau cố kìm lại của người phụ nữ ấy, tôi bỗng hiểu đó là sự hi sinh. Có biết bao người phụ nữ đang hi sinh một cách thầm lặng như thế, như hậu phương vững chắc của những người chiến sĩ đang công tác xa nhà? Tôi cảm phục trước sự mạnh mẽ của những người phụ nữ ấy biết bao nhiêu, khi chứng kiến những giọt nước mắt lăn dài của người vợ trẻ mới cưới một anh lính hải quân, chăn gối chưa nồng đã cách biệt cả năm trời.

Nhưng tôi tự hào biết bao vì giờ đây, vẫn luôn có những thanh niên yêu thích các học viện của Quân đội, như niềm khao khát cống hiến cho Tổ quốc, như lòng yêu nước tràn đầy trong tim. Sự cống hiến ấy không hề nhỏ, là cách biệt gia đình, là nơi thao trường huấn luyện nắng đỏ lửa hay trời sương giá, là sẵn sàng chiến đấu khi có nhiệm vụ.

Tôi xúc động khi nghe từng lớp lớp các chiến sĩ hàng ngày hát vang bài ca Vì nhân dân quên mình của người chiến sĩ lục quân Doãn Quang Khải. Những người lính ấy học hát chẳng qua trường lớp đào tạo nào, là cán bộ đại đội dạy cho cán bộ trung đội, cán bộ trung đội dạy cho cán bộ tiểu đội, cán bộ tiểu đội dạy cho từng chiến sĩ, là người đi trước dạy cho người đi sau, là sự truyền lửa không bao giờ lụi tắt, như ý chí và sức mạnh bền bỉ của Quân đội nhân dân Việt Nam, vượt qua mọi gian khó để hoàn thành nhiệm vụ. Bài ca ấy là bài ca thuộc về mỗi người lính.

Lời cuối, xin trích lời bài hát ấy, một bài hát chứa đựng cả 12 điều kỉ luật, 10 lời thề của Quân đội, nói được cả những lời dạy của Bác Hồ và hơn hết là nói lên Quân đội là từ nhân dân, vì nhân dân:

Vì nhân dân quên mình

Vì nhân dân hy sinh

Anh em ơi, vì nhân dân quên mình

 

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 9

Lớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247