`-` Sau khi tiếp cận Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, NAQ tích cực hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin về nước, chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam.
`1.` Nguyễn ái Quốc ở Pháp (1917-1923)
`-` Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Người sáng lập “Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa” để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc.
`-` Năm 1922, ra tờ báo “Người cùng khổ” để vạch trần chính sách đàn áp bóc lột dó man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự giải phóng mỡnh.
`-` Nguyễn Ái Quốc cũn viết nhiều bài cho cac báo Nhân đạo, Đời sống công nhân và viết cuốn "Bản án chế độ thực dân Pháp". Những sách báo này đó được bí mật chuyển về Việt Nam, góp phần tố cáo tội ác của đế quốc Pháp, truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin về nước, làm thức tỉnh đồng bào yêu nước.
`2` Nguyễn ái Quốc ở Liên Xô (1923-1924)
`-` Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân, sau đó ở lại Liên Xô vừa nghiên cứu vừa học tập.
`-` Năm 1924, tại Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V, Nguyễn Ái Quốc đó đọc tham luận về nhiệm vụ cách mạng ở các nước thuộc địa và mối quan hệ giữa cách mạng các nước thuộc địa với phong trào công nhân ở các nước đế quốc. Những quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận được dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin là bước chuẩn bị về chính trị và tư tưởng cho sự thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
`3`. Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc (1924-1925)
`-` Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam và thanh niên yêu nước ở đây để thành lập Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh niên, trong đó tổ chức Cộng sản đoàn làm nòng cốt.
`-` Người đã sáng lập ra bỏo Thanh niên, trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo cán bộ cách mạng. Các bài giảng của Người đó được tập hợp và in thành sách "Đường cách mệnh" (1927) nêu ra phương hướng cơ bản của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Thông qua Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh niên, NAQ đó đào tạo được những người cách mạng trẻ tuổi, một số người được cử đi học ở Liên Xô, một số được đưa về nước để truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lê nin vào quần chúng.
`-` Năm 1928, Hội chủ trương "Vô sản hoá', đưa hội viên vào hoạt động trong các nhà máy, hầm mỏ...
`-` Việc làm này đã góp phần thực hiện việc kết hợp kết hợp chủ nghĩa Mác Lê-nin với phông trào công nhân và phong trào yêu nước, thúc đẩy nhanh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
`=>`Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc đó có tác dụng quyết định trong việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính Đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, ngày 18/6/1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị ở Véc xây (18-21/6/1919) để giải quyết các vấn đề của chiến tranh. Khi đó, cũng như nhiều người, nhiều dân tộc “từng bị mê hoặc bởi những tuyên bố rộng rãi về quyền tự quyết của các dân tộc” của Tổng thống Hoa Kỳ, thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo bản Yêu sách của nhân dân An Nam (bản Yêu sách tám điểm) gửi tới Hội nghị Véc xây. Bản Yêu sách tám điểm, trong có điểm nổi bật là “đòi Chính phủ các nước họp Hội nghị phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam”. Dưới bản Yêu sách tám điểm ký tên Nguyễn Ái Quốc, tuy không được chấp nhận nhưng Bản yêu sách của Người được xem là điểm khởi đầu của một hành trình đấu tranh cách mạng và điểm khởi đầu đó đã gây chấn động nước Pháp và thế giới. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc đã chuyển thể bản Yêu sách tám điểm qua thể thơ lục bát và song thất lục bát với tên gọi Việt Nam yêu cầu ca.
Thẻ đảng viên Đảng Cộng sản Pháp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh)
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp. Tại đây, Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Sau khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục lao động kiếm sống và hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc các thuộc địa, phong trào công nhân, học tập, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu kinh nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới. Đặc biệt, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Người đã nhận thấy “chỉ có cách mạng Nga là thành công đến nơi” vì đem lại quyền lợi cho đông đảo quần chúng công nông. Nguyên nhân chính đưa tới sự thành công của cách mạng Tháng Mười Nga là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Bônsêvích do Lênin đứng đầu.
Từ năm 1921-6/1923, Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt động: thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua, làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ. Ngày 13/6/1923, Người rời nước Pháp sang Đức và thành phố Xanhpêtécbua (Liên Xô) ngày 30/6/1923.
Thẻ đại biểu tư vấn Đại hội V Quốc tế Cộng sản của đồng chí Nguyễn Ái Quốc năm 1924. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh)
Từ tháng 7/1923-10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa. Người hoạt động trong Quốc tế Nông dân; tham dự Đại hội II Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; tiếp tục viết nhiều sách báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp; học tập tại trường Đại học phương Đông; tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản.
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, vào tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo Thanh niên (21/6/1925) - tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp và in thành tác phẩm Đường Kách mệnh, được xuất bản vào năm 1927; phát hành với số lượng lớn về Việt Nam. Nội dung cuốn sách đã khẳng định: Cách mạng trước tiên cần có Đảng Cách mạng. Đảng có vững cách mạng mới thành công. Cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Do đó, cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi trước tiên phải xây dựng được một Đảng cách mạng vững mạnh. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt, trong Đảng ai cũng phải học, ai cũng phải theo. Nguyễn Ái Quốc còn phát hiện ra rằng, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc là động lực lớn của phong trào giải phóng dân tộc và Đảng Cộng sản là đội tiền phong cách mạng của giai cấp và dân tộc.
Trường Đại học Quốc tế Lênin số 25, Phố Voroxkova, Moscow – nơi đồng chí Nguyễn Ái Quốc học từ năm 1934 – 1936. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh)
Mùa hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi Liên Xô, sau đó đi Đức (11/1927) rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội đồng liên đoàn chống đế quốc (12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy Sỹ, sang Italia. Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại Trung Quốc vào cuối năm 1929.
Từ ngày 6/1-7/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin, với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chứng tỏ sự trưởng thành về nhận thức chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, chấm dứt thời kỳ bế tắc về đường lối, khủng hoảng về lãnh đạo của cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1930-1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức xây dựng được đường dây liên lạc quốc tế, đặc biệt là các nước Đông Nam Á với mục đích tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của nhân dân, tổ chức các nước trên thế giới, xây dựng lực lượng hậu thuẫn cho cách mạng Việt Nam thắng lợi.
Tháng 6/1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932, Người được trả tự do; những năm 1934-1938, Nguyễn Ái Quốc rời Thượng Hải đi Vlađivôxtốc (Liên Xô) vào học tại Trường Quốc tế Lênin, sau đó công tác tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc (tên gọi là P.C.Lin) được Ban Chỉ huy ở ngoài và Ban Trung ương của Đảng chỉ định là đại diện của Đảng ở Quốc tế Cộng sản và được cử đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản vào ngày 31/3/1935. Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An (Trung Quốc) làm việc tại Bộ chỉ huy Bát lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày 28/1/1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về nước (tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) ngày 2/9/1945. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh)
Chặng đường 30 năm bôn ba của Nguyễn Ái Quốc, vừa tìm đường cứu nước, vừa kiên trì chiến đấu đầy bản lĩnh và trí tuệ kiên định bảo vệ con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam. Thành quả vĩ đại của cuộc hành trình 30 năm đó thể hiện ở chỗ: Những câu hỏi lớn nhất đối với dân tộc Việt Nam, với cách mạng Việt Nam, mà trước đó chưa ai tìm được câu trả lời, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh giải đáp sáng tỏ, đầy sức thuyết phục.
Năm 1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc với tư cách là đại biểu của phong trào Việt Minh và đại diện của Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược. Cũng trong năm này, Nguyễn Ái Quốc bị bắt tại phố Túc Vinh với lý do giấy tờ tùy thân đã quá hạn sử dụng.
Ngày 9/8/1944, Hồ Chí Minh được trả tự do, Người rời Liễu Châu trở về hoạt động tại Pác Bó, Cao Bằng.
Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh gửi một bức thư cho Võ Nguyên Giáp; đó là Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.
Ngày 18/8/1945 Hồ Chí Minh viết Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa gửi quốc dân, đồng bào.
Sau khi phát động Tổng khởi nghĩa các tỉnh thành trong cả nước đồng loạt khởi nghĩa: ngày 19/8/1945 tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Nội; ngày 23/8 ở Huế; ngày 25/ 8 ở Sài Gòn. Chỉ trong một thời gian ngắn, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước thành công, chính quyền cách mạng về tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chính phủ Cách Mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố nền độc lập của dân tộc Việt Nam trước đồng bào cả nước và nhân dân thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Là hội tụ của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; là thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo để “lựa tình thế, chọn thời cơ”, đưa ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo ở tầm chiến lược.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Nhân dân Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam suốt 90 năm qua. Công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là:
Một là, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam - Con đường Cách mạng Vô sản. Những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, dấu chân Người từng in trên 3 đại dương, 4 châu lục và khoảng 30 quốc gia trong 10 năm (1911 - 1920). Quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó đã giúp người thanh niên yêu nước nhận thức rõ hơn, khái quát hơn những vấn đề mang tính chất bước ngoặt quan trọng, đó là nhận ra diện mạo, bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Nhận ra bản chất của các cuộc cách mạng qua nghiên cứu các cuộc cách mạng của các nước tư bản chủ nghĩa: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản. Cách mệnh không đến nơi, không triệt để, tiếng nói là cộng hòa là dân chủ. Kỳ thực bên trong thì nó bóc lột công nông trong nước, ở ngoài thì áp bức thuộc địa”[1]. Bắt gặp lý tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin: Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Sau này Người có kể lại: “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta”[2]. Có thể khẳng định, chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến lý tưởng cao quý của chủ nghĩa Mác - Lênin, với khát vọng mang lại hòa bình cho dân tộc, Người đưa ra những thông điệp mang giá trị vĩnh hằng, đó là những thông điệp về hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, đó chính là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường Người lựa chọn suốt 100 năm qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam.
Hai là, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản theo cách mạng Tháng Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái Quốc bằng hoạt động thực tiễn tích cực của mình ở nước ngoài đã tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, quá trình truyền bá đi từ thức tỉnh đến giác ngộ, từ lựa chọn con đường đến hành động cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phục thuộc.
Về chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức; xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của Đảng; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau này phát triển thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Về tổ chức: Sau khi từ Liên Xô về Quảng Châu, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã lập ra nhóm Cộng sản đoàn (02/1925). Trên cơ sở nhóm Cộng sản đoàn Người sáng lập nên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (6/1925) tại Quảng Châu - Trung Quốc, sau đó Người liên kết với những cộng sản ở thuộc địa đang hoạt động cách mạng ở Pháp lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông (7/1925). Các tổ chức là nơi để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Nhờ đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928 - 1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Có thể nói, trong những năm tháng đầy cam go, hiểm nguy, thử thách, với khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động khẩn trương, tích cực và đầy sáng tạo chuẩn bị những tiền đề tư tưởng, chính trị, tổ chức để dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam phù hợp với xu thế tiến bộ của lịch sử.
Ba là, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng.
Cuối năm 1929, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ dẫn tới sự ra đời của ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản đã khẳng định bước phát triển quan trọng của phong trào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều nhận là đảng cách mạng chân chính, do đó không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức.Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập một chính đảng duy nhất của Việt Nam, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bốn là, Người đã soạn thảo và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh đã xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam với nhiều nội dung rất quan trọng: mục tiêu của cách mạng, nhiệm vụ cách mạng, lực lượng cách mạng, phương pháp tiến hành cách mạng, quan hệ quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng. Những nội dung ấy dẫu rằng “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại. Cương lĩnh chính trị đầu tiên là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc. Và là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta trong mọi thời kì cách mạng và đặc biệt có giá trị trong thời đại ngày nay. 90 năm thực hiện đường lối chiến lược theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Việt Nam vẫn kiên định con đường cách mạng được khẳng định từ Cương lĩnh chính tri đầu tiên, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[3]; Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”[4]. Do đó, chúng ta hoàn toàn có quyền khẳng định rằng di sản Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay.
Kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Bác, chúng ta càng thấy công lao to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam nói chung và sự ra đời của Đảng ta nói riêng. Tưởng nhớ Người, chúng ta càng khắc sâu công lao của Người, mỗi cán bộ đảng viên của Đảng, đặc biệt những người hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng lý luận tự hào luôn có Đảng lãnh đạo, càng ra sức học tập để thấm nhuần đạo đức cách mạng của Người, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, học tập đạo đức và phong cách của Người để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong công cuộc đổi mới, đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận vai trò của Đảng, hạ thấp uy tín của Người đối với cách mạng Việt Nam, góp phần tích cực hiện thực hóa các Nghị quyết của Đảng trong cuộc sống.
Lịch sử là môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này. Những học giả viết về lịch sử được gọi là nhà sử học. Các sự kiện xảy ra trước khi được ghi chép lại được coi là thời tiền sử.
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247