Trang chủ Ngữ văn Lớp 8 giúp với mọi người ơi mai mình kiểm tra rồi...

giúp với mọi người ơi mai mình kiểm tra rồi mình nhờ các bạn.cảm ơn nhéVIẾT BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 3 – VĂN THUYẾT MINH (làm tại lớp) ĐỀ BÀI THAM KHẢO Đề 1. Thuyết

Câu hỏi :

giúp với mọi người ơi mai mình kiểm tra rồi mình nhờ các bạn.cảm ơn nhé

image

Lời giải 1 :

1, Thuyết minh về kính đeo mắt

Trong những vật dụng mà chúng ta thường dùng thì chiếc kính đeo mắt rất cần thiết đối với mọi người thuộc các lứa tuổi khác nhau.

Cấu tạo của chiếc kính gồm hai bộ phận chính là gọng kính và mắt kính. Gọng kính được làm bằng nhựa cao cấp hoặc kim loại quý. Gọng kính chia làm hai phần: phần khung để lắp mắt kính và phần gọng để đeo vào tai, nối với nhau bởi các ốc vít nhỏ, có thể mở ra, gập lại dễ dàng. Chất liệu để làm mắt kính là nhựa hoặc thủy tinh trong suốt. Gọng kính và mắt kính có nhiều hình dáng, màu sắc khác nhau.

Kính đeo mắt có nhiều loại. Loại thường như kính râm, kính trắng không số dùng che nắng, che bụi khi đi đường. Loại kính thuốc gồm kính cận, kính viễn, kính loạn thị, kính dùng sau khi mổ mắt... Muốn sử dụng, người có bệnh về mắt phải đi đo thị lực để kiểm tra, từ đó mới có thể chọn kính chính xác, không gây ra các tác dụng phụ như nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn... Không nên vì lí do thẩm mĩ mà ngại đeo kính thuốc khi bị bệnh. Nếu vậy sẽ làm độ cận hoặc độ viễn của mắt tăng rất nhanh. Lúc sử dụng kính, nên nhẹ nhàng mở bằng hai tay. Dùng xong nên lau sạch tròng kính bằng khăn lau mềm, mịn. Cất kính vào hộp để ở nơi cố định dễ tìm như trong ngăn tủ, ngăn bàn, mặt bàn... tránh các vật nặng đè vỡ hoặc làm trầy xước mặt kính. Thường xuyên rửa kính bằng nước, lau sạch tròng kính bằng khăn chuyên dùng. Để mặt kính không biến dạng, khi đeo và tháo kính nên dùng hai tay cầm hai gọng kính. Đối với gọng kính kim loại, nên thường xuyên kiểm tra, vặn chặt các ốc vít để giữ chặt tròng kính. Phải dùng kính đúng độ thì thị lực đỡ suy giảm.

Kính đeo mắt ngoài tác dụng giúp cho chúng ta nhìn nhận sự vật chính xác, tăng cường hiệu quả học tập và lao động thì còn là vật trang sức làm tăng thêm vẻ duyên dáng, thanh lịch cho mỗi người.

Con người có năm giác quan thì thị giác là giác quan hoàn hảo nhất và quan trọng nhất. Vì vậy, việc giữ gìn để có đôi mắt trong sáng và tinh tường đồng nghĩa với bảo vệ cuộc sống của chính mình.

2, Thuyết minh về bút bi

Bút bi là một vật dụng rất quen thuộc trong đời sống hàng ngày, đặc biệt là lứa tuổi học trò và những nhân viên công sở. Mỗi chiếc bút giúp chúng ta tạo ra những dòng chữ đầy dặn và thẳng tắp, lưu giữ những kí ức, vô vàn tri thức vào trong trang giấy. “Nét chữ là nết người” thông qua nét bút người ta có thể phần nào biết về tính cách con người qua dòng chữ. Nó rất thân thuộc với mỗi chúng ta, vậy đã bao giờ đã bao giờ bạn thắc mắc về nguồn gốc xuất xứ hay cấu tạo của chiếc bút bi chưa? Hôm nay chúng ta hãy cùng tìm hiểu nhé.

Bút bi còn có tên gọi khác là bút Bic, nó được cấp bằng sáng chế đầu tiên vào năm 1888 do  John J. Loud sáng tạo ra. Vào năm 1930, László Bíró là người Hung- ga- ri, lấy cảm hứng từ một viên bi chạy trong vũng nước để lại một vệt dài của những đứa trẻ chơi trong công viên ông đã cùng với người anh trai lên ý tưởng phát minh ra chiếc bút bi hiện đại ngày nay.

Chiếc bút bi có cấu tạo khá đơn giản. Mỗi chiếc bút chủ yếu có 3 phần chính gồm vỏ bút, phần ruột bên trong, cuối cùng là bộ phận điều chỉnh bút. Vỏ bút được làm từ chất liệu nhựa tổng hợp hoặc bằng kim loại với chức năng bảo vệ ruột bút bên trong. Vỏ bút có dạng hình trụ, thường dài vào khoảng 15cm-17cm, về phía đầu bút nhỏ dần.  Ruột bút là nhựa dẻo hình trụ nhỏ, nằm bên trong vỏ bút, dùng để chứa mực. Ruột bút được gắn với ngòi bút làm bằng kim loại. Trong ngòi bút có chứa một viên bi cực nhỏ. Bộ phận điều chỉnh của bút gồm phần bấm dùng để tắt, mở bút khi sử dụng và một chiếc lò xo ngắn tầm 3-4 cm, một vài loại  sử dụng nắp để đậy bút khi thôi dùng nhằm tránh khô mực.

Bút bi hiện nay được bán với rất nhiều loại. Phân theo đặc điểm có thể chia bút bi thành hai loại: loại chỉ sử dụng một lần và loại có thể nạp lại mực. Loại dùng một lần lấy nguyên liệu từ nhựa và không thể dùng lại khi hết mực. Loại có thể nạp lại mực thường được sản xuất  kim loại hoặc những loại nhựa có chất lượng tốt. Loại  này có ống mực và đầu bi gắn liền với nhau. Khi dùng hết mực thì thay ống mực là có thể sử dụng tiếp. Phân theo màu mực có thể chia làm nhiều loại: bút bi xanh, bút bi đỏ, bút bi tím, bút bi đen, bút bi sắc màu,….Phân theo nguồn gốc xuất xứ có bút bi trong nước và bút bi nhập khẩu. Kiểu dáng, màu sắc của bút bi cũng rất phong phú khi tung ra thị trường nhằm đáp ứng thị hiếu của khách hàng, phù hợp với sở thích của từng độ tuổi. Đặc biệt với trẻ em, những chiếc bút bi với vỏ được làm bằng các hình thù dễ thương, ngộ nghĩnh, như que kem, chú gấu, hình hoa quả ,…tạo nên sức hấp dẫn lạ kì. Nhiều hãng bút bi bán chạy và nổi tiếng trên thế giới như Paker, Mont Blanc, Reynolds,...ở Việt Nam các thương hiệu bút Hồng Hà, Thiên Long, Bến Nghe được tiêu thụ nhiều nhất.

Bút bi được bán với giá thành khá rẻ, phù hợp với túi tiền của học sinh. Mỗi chiếc thường từ dao động từ 3000- 4000 đồng, nhiều loại bút nhập khẩu có giá thành cao hơn, chất lượng cũng tốt hơn. Bút được bán rất nhiều tại các quầy tạp hóa, đặc biệt là gần các trường học, hay khu vực có nhiều trung tâm hành chính.

Thực tế cuộc sống đã chứng minh sự cần thiết của chúng. Mỗi chiếc bút bi là một công cụ hữu ích và rất tiện dụng cho con người. Với nhiều ưu điểm đặc biệt như dễ sử dụng, rẻ, đẹp,nhỏ gọn, đặc biết viết nhanh và dễ dàng nên rất được nhiều người sự dụng. Chiếc bút bi ra đời thực sự là một cuộc cách mạng trong văn hóa viết và lưu giữ của con người. Bút bi góp phần lớn vào công cuộc học tập và làm việc, trong nghệ thuật vẽ và phác thảo chân dung. Ngoài ra, nó còn là món quà tặng, quà lưu niệm đầy ý nghĩa cho thầy cô, bạn bè. Vỏ bút sau khi sử dụng có thể làm những vật trang trí đáng yêu cho góc học tập xinh đẹp của bạn.

Để bút bi dùng được bền hơn, chúng ta nên sử dụng chúng cẩn thận, đậy nắp lại khi không sử dụng, tránh làm rơi bút vì rất dễ bị tắc mực hay nứt, vỡ vỏ bút. Bút bi dễ trơn nên khi chữ đã thuần thục mới nên dùng bút bi, những bé vỡ lòng hay vừa tập viết nên chọn bút chì để dễ tẩy xóa và rèn chữ hơn.

4. Giới thiệu về chiếc áo dài VN.

"Chiếc áo quê hương dáng thướt tha

Non sông gấm vóc mở đôi tà

Tà bên Đông Hải lung linh sóng

Tà phía Trường Sơn rực rỡ hoa"

Từ bao đời này, áo dài đã trở thành trang phục truyền thống, thể hiện vẻ đẹp và tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.

Gọi là áo dài là theo cấu tạo của áo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo của người phụ nữ rồi từ đáy lưng, 2 thân thả bay xuống tận gót chân tạo nên những bước đi duyên dáng, mềm mại, uyển chuyển hơn cho người con gái.

Tấm áo lụa mỏng thướt tha với nhiều màu sắc kín đáo trang nhã lướt trên đường phố trở thành tâm điểm chú ý và là bông hoa sáng tôn lên vẻ yêu kiều, thanh lịch cho con người và khung cảnh xung quanh. Chiếc quần may theo kiểu quần ta ống rộng bằng thứ vải đồng chất đồng màu hay sa tanh trắng nâng đỡ tà áo và làm tăng sự mềm mại thướt tha cho bộ trang phục mượt mà duyên dáng, gợi vẻ đằm thắm đáng yêu.

Đã ngót một thế kỷ nay, cô nữ sinh trường Quốc học Huế trong trang phục áo dài trắng trinh nguyên như là biểu trưng cho vẻ đẹp thanh khiết cao quý của tâm hồn người thiếu nữ đất Việt. Để đến bây giờ trang phục ấy trở thành đồng phục của nhiều nữ sinh trong các trường phổ thông trung học như muốn nói với mọi người với du khách quốc tế về văn hoá và bản sắc dân tộc. Tà áo trắng bay bay trên đường phố, tiếng cười hồn nhiên trong trẻo của những cô cậu học sinh vương lại phía sau cùng mảnh hoa phượng ở giỏ xe rơi lác đác gợi cho người qua đường một cảm giác lâng lâng, bâng khuâng nhớ về thuở học trò trong vắt những kỷ niệm thân thương.

Ngày Tết hay lễ hội quê hương, đám cưới hay những buổi lên chùa của các bà, các mẹ, các chị, chiếc áo dài nâu, hồng, đỏ... là một cách biểu hiện tâm lòng thành kính gửi đến cửa thiền một lòng siêu thoát, tôn nghiêm. Chiếc áo dài trùm gối, khăn mỏ quạ chít khéo như hoa sen, tay nâng mâm lễ kính cẩn lên cửa chùa, miệng "mô phật di đà"... hình ảnh ấy đã đi vào bức hoạ tranh dân gian Đông Hồ là một biểu tượng độc đáo của văn hoá Việt Nam.

Ngày nay trong muôn vàn sự cách tân về trang phục, váy đầm, áo ngắn, áo thời trang... chiếc áo dài Việt Nam vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc, mang theo phong cách và tâm hồn người Việt đến với năm châu và trở thành trang phục công sở ở nhiều nơi.

3. Giới thiệu về chiếc dép lốp trong kháng chiến.

"Đôi dép đơn sơ đôi dép Bác Hồ
Bác đi từ ở chiến khu Bác về,
Phố phường trận địa nhà máy đồng quê
Đều in dấu dép Bác về Bác ơi."

Đôi dép xuất hiện trong lời bài hát trên chính là đôi dép lốp mà Bác đã sử dụng hơn hai mươi năm kể từ năm 1947 cho đến khi Bác qua đời. Có thể thấy rằng hiếm có quốc gia nào như Việt Nam, rất nhiều những thứ tưởng đơn sơ giản dị nhưng lại trở thành những biểu tượng mang trong mình giá trị tinh thần sâu sắc vô cùng, ví như hình ảnh cây lúa nước, lũy tre làng, con trâu cày, rồi ngay đến cả đôi dép lốp cũng trở thành một hình ảnh bất hủ, là biểu tượng cho một thời kì kháng chiến chống đế quốc gian khổ và kiêu hùng của dân tộc Việt Nam.

Không có một mốc thời gian cụ thể cho sự ra đời của dép lốp, chỉ biết rằng người đưa ra ý tưởng làm loại dép này chính là Đại tá Hà Văn Lâu. Vào năm 1947, nhân lúc thấy đồng đội của mình là ông Nguyễn Văn Sáu sở hữu một chiếc lốp xe cũ, đã không còn sử dụng được nữa, ông đã đề nghị cắt lốp thành nhiều phần để chế tạo một loạt dép lốp kiểu dáng như loại dép sandal phổ biến ngày hôm nay được nhiều giới trẻ ưa chuộng. Ý định này của Đại tá Hà Văn Lâu có lẽ xuất phát từ những điều kiện gian khổ và thiếu thốn quân nhu trong chiến tranh, bộ đội ta thường phải đi chân trần hoặc những loại giày dép tàn tệ, không bảo vệ được bàn chân. Vừa hay với độ bền, dai của cao su những tác động của mảnh chai, đinh nhọn, than đỏ đều không thể tổn hại bàn chân, giảm được đáng kể những thương tích không đáng có, trong điều kiện y tế còn hạn chế, một vết thương cũng đủ khiến bộ đội ta chật vật. Loại dép này có nhiều tên khác nhau như dép lốp, dép cao su, dép cụ Hồ.

Đôi dép lốp là biểu tượng nổi tiếng của bộ đội cụ Hồ trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nó tượng trưng cho sự gian khổ, thiếu thốn về vật chất đồng thời cũng là biểu tượng cho những đức tính tốt đẹp của người dân Việt Nam, một dân tộc có thể thiếu thốn về vật chất nhưng chưa bao giờ thiếu sự sáng tạo, thiếu sức chiến đấu mạnh mẽ, họ sẵn sàng khắc phục và vượt qua mọi hoàn cảnh khắc nghiệt để lao mình vào cuộc chiến. Đặc biệt, Hồ Chủ tịch cũng là một trong số những người rất ưa thích dép lốp bởi sự tiện dụng và bền bỉ, phù hợp với phong cách cần kiệm của Bác. Chỉ một đôi dép, nhưng Bác đã sử dụng nó đến tận hơn 20 năm trời, kể cả khi nó hỏng Bác vẫn cố gắng tu sửa, và cho đến cuối đời Bác vẫn chỉ gắn bó với một đôi dép lốp ấy, cuối cùng nó đã trở thành huyền thoại, một ví dụ kinh điển về sự giản dị và đức tính tiết kiệm, là biểu tượng cho "cuộc đời cách mạng" vì nước, vì dân của Bác.

Chính vì sự gắn bó thân thiết với một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và với các chiến sĩ cách mạng thế nên dép lốp chính là đôi dép hiếm hoi được đưa vào trong các tác phẩm nghệ thuật. Nổi tiếng nhất là bài hát Đôi dép Bác Hồ của nhạc sĩ Văn An, hoặc trong một bài báo có tiêu đề Đôi hài vạn dặm đã viết về dép lốp với những lời thấm thía:"Đôi dép ấy rất đỗi bình dị, mộc mạc đơn sơ, nhưng thật nhiều ý nghĩa như chính cuộc đời Bác kính yêu. Bởi đôi dép cao su đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng vì dân, vì nước của Bác. Ngày nay, đôi dép ấy đã trở thành kỉ vật thiêng liêng và vô giá của dân tộc ta". Và có một điều thú vị rằng, dép lốp phối hợp với quân phục xanh lá, thắt lưng quân dụng đã từng là một xu hướng thời trang vào những năm 70-80 của thế kỷ trước.

Dép lốp cũng có hình dáng và cấu tạo tương đối giống các loại dép thông thường, bao gồm hai quai bắt chéo trên mu bàn chân và hai quai bắt ngang cổ chân, giữ cho dép khỏi tụt khi di chuyển. Đế dép phẳng và dày, mặt dưới là mặt ngoài của lốp xe chống trơn trượt rất tốt. Việc chế tạo đôi dép lốp khá đơn giản, vật liệu chủ yếu là lốp và săm xe đã cũ, người ta cắt lấy phần giữa của lốp xe theo khuôn hình bàn chân làm đế dép, sau đó đục 8 lỗ để xỏ quai. Phần quai dép được làm từ săm xe, người ta cắt các mảnh quai rộng khoảng 1-1,5cm, chiều dài khoảng 12-15cm tùy cỡ chân, rồi dùng tay luồn qua các lỗ đã được đục trên đế dép, không cần sử dụng keo dán hay dùng chỉ cố định, đế dép sẽ tự động mút chặt quai dép nhờ sự giãn nở của cao su.

Dép lốp là loại dép giản dị, rẻ tiền nhưng vô cùng tiện dụng, có đặc tính chống trơn trượt, đi được trên mọi địa hình, đặc biệt với phần đế cao su cứng và dày hầu như khó có loại gai góc, đinh nhọn, hay mảnh chai nào có thể xuyên qua, thậm chí đi trên than, trên lửa nóng cũng không hề hấn chi. Đặc biệt với chất liệu cao su và phần quai dép ôm lấy cổ chân và mu bàn chân thế nên người chiến sĩ có thể dễ dàng băng rừng lội suối mà không sợ tuột dép, trễ nải quân hành. Không chỉ thế, dép lốp còn rất phù hợp với hoàn cảnh chiến đấu của nhân dân ta thời bấy giờ, bởi được làm từ vật liệu tái chế, rẻ tiền và vô cùng bền vững, cứ nhìn vào ví dụ kinh điển đôi dép cao su 20 năm vẫn vẹn nguyên của Bác trong lăng Chủ tịch là đủ để đánh giá điều này. Một lý do nữa là dép lốp khá tiện dụng, lại thoáng mát, dễ cọ rửa, mau khô không sợ những điều kiện thời tiết thất thường, nên rất được ưa chuộng.

Dép lốp là một biểu tượng kinh điển gợi nhắc đến hình ảnh người bộ đội cụ Hồ trong những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, thể hiện tinh thần tiết kiệm, giản dị thanh cao của Hồ Chủ tịch, nó đã nâng bước đôi chân Bác cùng các cán bộ chiến sĩ đi hết dải Trường Sơn, làm nên chiến thắng oanh liệt cho dân tộc. Ai có thể ngờ rằng một dân tộc chân mang dép lốp, đầu đội mũ cối, thân bọc áo trấn thủ, lấy sức người kéo pháo, lấy xe đạp thồ lương thực và vũ khí lại có thể chiến thắng cả 2 đế quốc hùng mạnh bậc nhất lúc bấy giờ. Tất cả đều nhờ vào lòng kiên trì, tinh thần dũng cảm, đoàn kết, cùng tấm lòng yêu nước tột độ, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của một dân tộc kiêu hùng xứng danh con cháu của Hùng Vương, hậu duệ của giống Rồng, Tiên.

           GỬI BẠN Ạ         

Thảo luận

-- cho mk xin câu hay nhất với ạ^^
-- cậu chép mạng ạ
-- https://zaidap.com/thuyet-minh-ve-chiec-kinh-deo-mat-8211-van-hay-lop-8-d107063.htm
-- link đây ạ
-- thank 2bn

Lời giải 2 :

Tục ngữ Việt Nam có câu "Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân". Suy ngẫm nhiều, chúng ta thấy đúng là y phục góp phần quan trọng vào vẻ đẹp mỗi con người, góp phần quan trọng vào dáng vẻ thướt tha của phụ nữ. Một trong những kiểu y phục ấy là chiếc áo dài Việt Nam.

Trải qua bao thế kỉ chiếc áo dài đã có nhiều thay đổi so với tổ tiên nó trước đây. Không ai biết rõ nguồn gốc nguyên thủy của chiếc áo dài vì chưa có tài liệu ghi nhận. Những kiểu sơ khai nhất của chiếc áo dài là chiếc áo giao lãnh. Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát là người được xem là có công sáng chế chiếc áo dài và định hình chiếc áo dài Việt Nam. Chính do sự di cư của người Minh Hương mà chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cho ra đời chiếc áo dài giao lãnh để tạo nét riêng cho dân tộc Việt. "Thường phục thì đàn ông, đàn bà mặc áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được sẻ mở"...(Sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên) - đây là bằng chứng lịch sử cho ta thấy chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cho ra đời chiếc áo giao lãnh như thế nào.Áo dài được may bằng nhiều chất liệu như gấm, nhung, lụa tơ tằm. Hiện nay, các nhà thiết kế y phục đã sáng tạo ra nhiều kiểu áo dài tân thời, cổ áo cài khuy. Khuy áo là hạt cườm, hạt ngọc, cúc bấm. Tay áo dài không có cầu vai, may liền với cổ áo giống như áo bà ba xẻ tà. Chính đặc điểm này khiến việc sinh hoạt của ngực phụ nữ được dễ dàng, đồng thời tạo dáng thanh thoát, yểu điệu, thướt tha.

Ra đời cách đây đã hàng ngàn năm, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, áo dài đã trở thành một biểu tượng không thể thiếu của đất nước, người phụ nữ Việt Nam với những nét đẹp dịu dàng, đằm thắm, là niềm tự hào cũng như nét đẹp cổ truyền của dân tộc.

💋💋

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 8

Lớp 8 - Năm thứ ba ở cấp trung học cơ sở, học tập bắt đầu nặng dần, sang năm lại là năm cuối cấp áp lực lớn dần nhưng các em vẫn phải chú ý sức khỏe nhé!

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247