$a/$ Con chim trống (XX) giảm phân bình thường chỉ cho 1 loại tinh trùng X
- Cơ chế hình thành hợp tử có cặp NST XXY:
+ XXY được hình thành do tinh trùng X thụ tinh với trứng XY.
+ Trứng XY được tạo ra do ở con mái (XY) giảm phân không bình thường trong giảm phân 1, giảm phân 2 bình thường.
- Cơ chế hình thành hợp tử có cặp NST XYY:
+ XYY được hình thành do tinh trùng X thụ tinh với trứng YY.
+ Trứng YY được tạo ra do ở con mái giảm phân không bình thường:
TH1: giảm phân 1 và giảm phân 2 không bình thường
TH2: giảm phân 1 bình thường, giảm phân 2 không bình thường.
$b/$ Số lượng từng loại nucleotit của gen chưa bị đột biến:
A = T = 120 x 5 = 600 (Nu),
G = X = 90 x10 = 900 (Nu)
- Tỉ lệ % từng loại nu của gen chưa bị đột biến:
Tổng số Nu trong gen chưa bị đột biến là: (600 x 2) + (900 x 2) = 3000 (nu)
A = T = (600 x 100)/3000 = 20%,
G = X = (900 x100)/3000 = 30%
- Chiều dài của gen chưa bị đột biến: (3000/2) x 3,4 A0 = 5100 A0 = 0,51 micromet
a. - Số nucleotit Timin giảm đi $\frac{1}{5}$ nên gen đột biến có số nu T bằng $\frac{4}{5}$ gen chưa bị đột biến:
$T_{đb}=\frac{4}{5}T$
- Số nucleotit Xitôzin mất đi bằng $\frac{1}{10}$ số nucleotit loại Guanin của gen chưa bị đột biến nên gen đột biến có số nu loại X bằng $\frac{9}{10}$ gen chưa bị đột biến:
$X_{đb}=\frac{9}{10}G$
→ Mà $X_{đb}=G_{đb}$
→ $G_{đb}=\frac{9}{10}G$
- Gọi số lần nhân đôi của gen đột biến là k (k ∈ $Z^{+}$).
- Khi đoạn gen còn lại tự nhân đôi thì nhu cầu so với trước về số nucleotit đã bớt đi 90 Guanin và 120 Adenin nên ta có:
$\left \{ {{G.(2^{k}-1)-G_{đb}.(2^{k}-1)=90} \atop {A.(2^{k}-1)-A_{đb}.(2^{k}-1)=120}} \right.$
→ $\left \{ {{G-G_{đb}=90} \atop {A-A_{đb}=120}} \right.$
→ $\left \{ {{G-\frac{9}{10}G=90} \atop {A-\frac{4}{5}A=120}} \right.$
→ $\left \{ {{G=X=900} \atop {A=T=600}} \right.$
→ $N = (600 + 900) . 2 = 3000 (nu)$
- Tỉ lệ % từng loại nucleotit của gen chưa bị đột biến là:
$\left \{ {{G=X=\frac{900}{3000}=30\%} \atop {A=T=\frac{600}{3000}=20\%}} \right.$
b. Gen chưa bị đột biến có chiều dài là:
$L = \frac{3000}{2}.3,4=5100(A^{0})$
c. Đột biến gen có thể gây hại nhưng cũng có thể vô hại hoặc có lợi cho thể đột biến. Xét ở mức độ phân tử, phần nhiều đột biến thường vô hại (trung tính). Tuy nhiên, những đột biến gen dẫn đến làm thay đổi chức năng của protein thì thường có hại cho thể đột biến, một số đột biến gen cũng có thể làm thay đổi chức năng của protein theo hướng có lợi cho thể đột biến.
Ngoài ra, mức độ gây hại của alen đột biến phụ thuộc vào điều kiện môi trường cũng như phụ thuộc vào tổ hợp gen.
Sinh học hay sinh vật học (tiếng Anh: biology bắt nguồn từ Hy Lạp với bios là sự sống và logos là môn học) là một môn khoa học nghiên cứu về thế giới sinh vật. Nó là một nhánh của khoa học tự nhiên, tập trung nghiên cứu các cá thể sống, mối quan hệ giữa chúng với nhau và với môi trường. Nó miêu tả những đặc điểm và tập tính của sinh vật (ví dụ: cấu trúc, chức năng, sự phát triển, môi trường sống), cách thức các cá thể và loài tồn tại (ví dụ: nguồn gốc, sự tiến hóa và phân bổ của chúng).
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247