Trong nền văn học nước nhà, những bài thơ của những người chồng ca ngợi người vợ rất ít do ảnh hưởng của tư tưởng Nho Giáo hay những luật lệ khắt khe của xã hội phong kiến người phụ nữ không được đề cao. Đề tài làm về người phụ nữ trong xã hội thì được đề cập và nhắc tới rất nhiều như Nguyễn Du đã khóc thay cho số phận người phụ nữ:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Truyện Kiều)
Còn rất nhiều bài về số phận phụ nữ thời xưa theo như chúng ta được học và tự tìm hiểu, và trong số đó có bài Thương Vợ, bài thơ tiêu biểu của tác giả Trần Tú Xương :
Nhà thơ Trần Tế Xương (1870- 1907), là người con của miền đất Nam Định. Ông là một con người tài hoa nhưng nhiều lần lận đận thi cử. Ông có sự nghiệp sáng tác thơ văn khá đồ sộ khoảng hơn một nghìn bài, trong đó phần lớn là thơ trào phúng. “Thương vợ” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, thuộc thể loại trữ tình. Đây là một trong những bài thơ hay nhất và cảm động nhất viết về người vợ của văn học trung đại Việt Nam.
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công".
Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Ngoài sách vở nghiên mực ra thì ông chẳng biết làm gì khác. Mở đầu bài thơ là hai câu đề giới thiệu không gian và thời gian của làm việc của bà Tú ( vợ Tế Xương). Nếu thời gian làm việc là “quanh năm”: hết ngày này qua ngày khác, không lúc nào được ngơi nghỉ thì không gian làm việc là “mom sông”: phần đất nhô ra của bờ sông- cheo leo, nguy hiểm. Tất cả những điều đó đã tái hiện lên hình ảnh của bà Tú với công việc buôn bán vất vả ngược xuôi rất bấp bênh. Người phụ nữ ấy lam lũ, vất vả, cơ cực lo toan cho gia đình. Và ngay đến câu thứ hai, nguyên nhân của sự lam lũ đó đã được lí giải: “Nuôi năm con”, “Nuôi một chồng”. Nhà thơ cố tình tách câu thơ ra làm hai vế đếm chồng và đếm con để nhấn mạnh hoàn cảnh của bà Tú vô cùng đặc biệt. Khi chính nhà thơ (người chồng của Bà) lại không thể chăm sóc, đỡ đần cho vợ. Tác giả tự mỉa mai mình là một “đứa con đặc biệt”- một ông chồng ăn bám, phụ thuộc vợ. Qua đó, cũng ẩn chưa tình cảm biết ơn, thấu hiểu của Tú Xương dành tặng cho người vợ đảm đang, tháo vát của mình.
Đến với hai câu thực, ngay đầu câu, nghệ thuật đảo ngữ đã xuất hiện tạo nên một án tượng mạnh mẽ với người đọc về hình ảnh công việc hằng ngày của bà Tú. “Lặn lội” là từ láy tượng hình, gợi hình ảnh bà vất vả, bươn chải. “Eo sèo”: từ láy gợi âm thanh: mô phỏng tiếng kì kèo, ngã giá mặc cả của những người buôn bán. Song song với đó là nghệ thuật ẩn dụ với hình ảnh: “thân cò”. Chúng ta vẫn biết hình ảnh con cò từ lâu đã trở thành biểu tượng cho những người lao động vất vả, chân lấm tay bùn, thấp cổ bé họng trong ca dao xưa. Từ “con cò” đến “thân cò” càng gợi sự tội nghiệp, đáng thương và thân phận nhọc nhằn của người phụ nữ. Phải chăng, Tú Xương thấy hình ảnh đó cũng thật gần gũi với người vợ của mình khi bà hằng ngày đơn độc, nhỏ bé, với công việc buôn bán xô bồ, chen chúc. Qua đây, càng thể hiện rõ hơn tình yêu thương, sự xót xa của ông Tú dành cho bà Tú.
Hóa thân vào nhân vật người vợ, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước hoàn cảnh gia đình. Khi đọc bài thơ hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Những câu thơ như lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng được nhấn mạnh và nổi bật hơn.
Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần một phần nào, thể hiện ở hai câu kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi niềm chất chứa của nhà thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Cuối cùng, hai câu kết là tiếng chửi của Tú Xương với xã hội phong kiến đương thời. Từ “cha mẹ” ở đây để phiếm chỉ nhưng luật lệ hà khắc, quy định ngặt nghèo của xã hội phong kiến như: trọng nam khinh nữ khiến cho bà Tú và tất cả những người phụ nữ cùng thời giống như bà phải chịu sự khó khăn, cực nhọc mà lại không được người đời để tâm đến. Nhà thơ cũng tự trách bản thân “Có chồng hờ hững cũng như không”- nhà thơ tự thấy mình là người không san sẻ, gánh vác được nỗi lo toan với vợ của mình. Tú Xương xót xa, tủi nhục khi chính mình chỉ là một số không tròn trĩnh trong gia đình và xã hội. Qua tiếng chửi thể hiện lòng xót thương cho người vợ và chính bản thân mình của Tú Xương trước sự thay đổi của thời thế. Xã hội không trọng người tài, khiến nhà thơ không có cơ hội thể hiện, khẳng định mình nên càng không có cách nào giúp đỡ vợ. Đồng thời, câu thơ thể hiện nhân cách của nhà thơ khi biết tự nhận lỗi về mình, hiểu được sự thiếu sót của bản thân với người vợ yêu quý.
Bài thơ là những tâm tình, tâm sự của Tú Xương dành cho vợ của mình, người phụ nữ "nâng khăn sửa túi" cho cuộc đời ông, người phụ nữ quan trọng nhất cuộc đời ông. Người phụ ấy mang những phẩm chất tuyệt vời nhất của mẫu người phụ nữ truyền thống, đảm đang, tháo vát, hết lòng vì chồng con. Tú Xương không chỉ thương yêu mà còn dành sự trân trọng sâu sắc đến vợ của mình.Đây là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương, thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú. Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương Vợ” đã lột tả rõ một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của Tú Xương.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247