$-$ Những giải pháp:
$+)$ Có kế hoạc giáo dục đào tạo hợp lý, tổ chức hướng nghiệp dạy nghề
$+)$ Phân bố lại dân cư và nguồn lao động giữa các ngành, các vùng
$+)$ Phát triển các hoạt động công nghiệp, dịch vụ ở đô thị, đa dạng hóa các hoạt động ở kinh tế nông thôn
rong những năm gần đây, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) của Việt Nam đã có chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức, tổ chức thực hiện và kết quả.
Theo kết quả điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình, tỷ lệ sinh giảm từ 30,04 phần nghìn (năm 1993) xuống 17,5 phần nghìn (năm 2003); tổng tỷ suất sinh theo kết quả tổng điều tra dân số (TĐTDS) năm 1999 là 2,33 giảm xuống 2,10 theo kết quả điều tra biến động dân số năm 2003.
Với kết quả này, Tổng cục Thống kê (TCTK) đã đánh giá: Tổng tỷ suất sinh (TFR) của TĐTDS 1999 và các cuộc điều tra biến động dân số 2001, 2002, 2003 cho thấy, mức sinh của Việt Nam dường như chững lại và có dao động chút ít trong ba năm sau cuộc TĐTDS 1999 (tức trong thời kỳ 1999 - 2001), và cuối cùng đã đạt mức sinh thay thế vào năm 2002. Kết hợp với những kết quả đánh giá số liệu điều tra nhân khẩu học và sức khỏe năm 2002 (DHS 2003), có thể khẳng định rằng, năm 2002 là thời điểm nước ta đạt mức sinh thay thế.
Mặc dù vậy, các nhà nhân khẩu học trong và ngoài nước đều dự báo rằng, mức sinh của Việt Nam giảm nhanh trong một số năm qua nhưng chưa ổn định và vẫn có nguy cơ tăng trở lại. Năm 2004, TCTK đã công bố cuốn niên giám thống kê 2003, số liệu cho thấy, tỷ lệ tăng dân số là 1,32% năm 2002, tăng lên 1,47% năm 2003. Để góp phần xem xét, đánh giá hiện trạng tỷ lệ sinh tăng trở lại, chúng tôi phân tích trên những khía cạnh nhân khẩu học, góp phần giúp cho các nhà quản lý có những đánh giá, nhận định nhằm hoạch định kế hoạch, chính sách thích hợp cho thời gian tới.
Về xu thế, các nhà nhân khẩu học và thống kê đã nhận định: Đúng như dự đoán và giống như hiện tượng đã xảy ra ở nhiều nước trên thế giới, sau TĐTDS 1999, nhìn chung mức sinh vẫn tiếp tục theo xu hướng giảm nhưng có xu hướng lên - xuống khi đã tiệm cận mức sinh thay thế. Xu hướng dao động nói trên có thể vẫn còn xảy ra trong những năm tới khi mức sinh chưa ổn định. Đây là hiện tượng mang tính phổ biến đối với các nước có mức sinh đang gần sát hoặc mới đạt mức sinh thay thế, vì thế cần phấn đấu giảm sinh trong một thời gian nữa mới có thể bảo đảm mức sinh ổn định.
Theo báo cáo của Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (UBDSGĐ&TE) trong sáu tháng đầu năm 2004, mức sinh tiếp tục tăng lên. Quy mô dân số năm 2004, 2005 cũng sẽ tăng lên và khó có khả năng đạt mức sinh thay thế vào năm 2005 như mục tiêu của Chiến lược dân số Việt Nam 2001 - 2010 đã đề ra. Xem xét chi tiết hơn theo từng vùng, điều đáng lưu ý, kể từ sau cuộc TĐTDS 1999, những vùng, tỉnh có mức sinh cao thì tổng tỷ suất sinh tiếp tục giảm khá đều theo thời gian, nhưng đối với các vùng, tỉnh và đặc biệt ở các khu vực thành thị mà trước đây đã đạt hoặc thấp dưới mức sinh thay thế thì TFR có xu hướng dao động lên - xuống trong bốn năm qua, mặc dù mức độ chưa lớn. Kết quả báo cáo cho thấy, có 38 tỉnh, thành phố có mức sinh cao, đáng chú ý, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên, trong đó có 10 địa phương chiếm tỷ lệ cao nhất là Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, TP Hồ Chí Minh, An Giang, Trà Vinh, Cần Thơ và Cà Mau. Đây là giai đoạn tăng mạnh nhất về số trẻ sinh ra trong ba năm gần đây. Các tỉnh có mức sinh tăng đều là những địa phương đã đạt mức sinh thay thế, trong khi đó ở những vùng miền núi mức sinh vẫn đang tiếp tục giảm.
Kết quả điều tra biến động dân số và nguồn nhân lực năm 2003 cho thấy tỷ lệ phần trăm sinh con thứ ba trở lên của phụ nữ nước ta còn khá cao. Tỷ lệ này ở khu vực nông thôn cao gần hai lần khu vực thành thị (24% so với 13%). Nếu chỉ giới hạn nghiên cứu trong số phụ nữ đã từng có chồng, tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên sẽ còn cao hơn rất nhiều. Tỷ lệ sinh con thứ ba theo tám vùng của hai cuộc điều tra 2002 và 2003 cho thấy, có hai vùng tỷ lệ không thay đổi, ba vùng tỷ lệ sinh con thứ ba tăng lên (Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên) và ba vùng có tỷ lệ giảm. Qua kết quả điều tra biến động dân số một số năm cho thấy mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên có sự tương quan rất chặt chẽ, ở đâu có mức sinh cao thì ở đó tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên cũng cao và ngược lại.
Địa lí học (trong tiếng Hy Lạp γεωγραφία, geographia, nghĩa là "mô tả Trái Đất") là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu về các vùng đất, địa hình, dân cư và các hiện tượng trên Trái Đất. Dịch sát nghĩa sẽ là "nhằm mô tả hoặc viết về Trái Đất".
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247