Trang chủ Lịch Sử Lớp 11 hãy làm rõ sự đoàn kết chiến đấu của quân...

hãy làm rõ sự đoàn kết chiến đấu của quân dân ba nước Lào,Campuchia và Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (cuối thế kỉ XIX- đầu thế k

Câu hỏi :

hãy làm rõ sự đoàn kết chiến đấu của quân dân ba nước Lào,Campuchia và Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX)

Lời giải 1 :

TCCSĐT - Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia là ba nước có nhiều điểm tương đồng về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là có chung vận mệnh lịch sử; từ rất sớm, nhân dân ba nước đã đoàn kết bên nhau chống thù chung, góp phần bảo vệ nền độc lập, tự do của mỗi dân tộc. Theo dòng chảy thời gian, tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước ngày càng được bồi tụ, vun đắp và nhân lên mạnh mẽ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ.

xin hay nhất ạ 

Thảo luận

Lời giải 2 :

TCCSĐT - Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia là ba nước có nhiều điểm tương đồng về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là có chung vận mệnh lịch sử; từ rất sớm, nhân dân ba nước đã đoàn kết bên nhau chống thù chung, góp phần bảo vệ nền độc lập, tự do của mỗi dân tộc. Theo dòng chảy thời gian, tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước ngày càng được bồi tụ, vun đắp và nhân lên mạnh mẽ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ.


Sát cánh bên nhau chống kẻ thù xâm lược

Sau thất bại của thực dân Pháp ở chiến trường Điện Biên Phủ, thực hiện Học thuyết “Đô-mi-nô” trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng, đế quốc Mỹ nhanh chóng “nhảy vào” thế chân Pháp hòng ngăn chặn, phá hoại tình đoàn kết chiến đấu và sự phát triển của cách mạng ba nước Đông Dương, biến nơi đây thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ.

Trước tình hình đó, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm với sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, Đảng Lao động Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm xác định: “Để chiến thắng đế quốc Mỹ mạnh hơn ta gấp bội, chúng ta phải luôn luôn giương cao ngọn cờ quốc tế vô sản…, chủ động đề ra và nhất quán thực hiện những quyết sách về đoàn kết, liên minh với hai nước láng giềng là Lào và Cam-pu-chia nhằm tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ của bạn bè quốc tế, bồi dưỡng mạnh mẽ thực lực kháng chiến của ta; đồng thời, ra sức giúp đỡ các nước bạn xây dựng, củng cố và tăng cường thực lực cách mạng, thực hiện đoàn kết thành một khối thống nhất vững chắc chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai”(1).

Trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng ba nước Đông Dương và sau thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” đối với miền Nam Việt Nam. Chiến lược đó cùng với việc đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Lào và tăng cường phá hoại con đường hòa bình, trung lập của Vương quốc Cam-pu-chia đã đặt tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương đứng trước thử thách mới. Trong hoàn cảnh đó, từ ngày 01 đến 09-3-1965, Hội nghị nhân dân ba nước Đông Dương đã diễn ra tại Phnôm Pênh (Cam-pu-chia) để biểu thị tình đoàn kết chống Mỹ, chống âm mưu chia rẽ của kẻ thù. Hội nghị thông qua nghị quyết cực lực lên án Chính phủ Mỹ đã vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ, gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, can thiệp vũ trang vào Lào và tiến công khiêu khích Cam-pu-chia; đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải củng cố tình đoàn kết chiến đấu chân thành và bền vững của các dân tộc Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Thành công của Hội nghị nhân dân Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia phản ánh nguyện vọng và quyết tâm đoàn kết chiến đấu, đánh dấu một bước tiến lớn trong sự nghiệp đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược.

Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn Đông Dương, phong trào phản đối Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ngày càng dâng cao trên toàn thế giới. Trong bối cảnh đó, để tăng cường tình đoàn kết liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung giữa nhân dân ba nước, trong hai ngày 24 và 25-4-1970, Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước Đông Dương đã diễn ra gần khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc - Lào. Hội nghị ra tuyên bố chung, nêu rõ “quyết tâm bảo vệ và phát triển tình hữu nghị anh em và quan hệ láng giềng tốt giữa ba nước trong khi ủng hộ lẫn nhau chống kẻ thù chung, cũng như sau này trong việc hợp tác lâu dài xây dựng đất nước theo con đường riêng của mình”(2). Sau Hội nghị cấp cao này, tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước ngày càng phát triển, giành được những thắng lợi quyết định, tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến. Ở chiến trường Lào, quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với quân dân nước bạn đánh bại cuộc hành quân Cù Kiệt của đế quốc Mỹ và phái hữu, tiếp theo là thắng lợi trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (năm 1971), chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng (năm 1972). Trong khi đó, ở chiến trường Cam-pu-chia, những hoạt động phối hợp tác chiến giữa quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia đã đánh bại cuộc hành quân “Chen La I” (tháng 6-1970), “Toàn Thắng” (tháng 02-1971 và “Chen La II” (tháng 8-1971) của đế quốc Mỹ, qua đó mở ra cục diện mới cho cách mạng Cam-pu-chia, đồng thời tạo thế chiến lược có lợi cho quân và dân ta ở miền Nam mở những cuộc tiến công chiến lược để giành thắng lợi lớn hơn.

Sau những thất bại nặng nề, liên tiếp về quân sự trên chiến trường ba nước Đông Dương, nhất là tại chiến trường Việt Nam, tại Pa-ri, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (ngày 27-01-1973), cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chấp nhận để chính quyền tay sai ở Lào ký Hiệp định Viêng Chăn (ngày 21-02-1973) về lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc lần thứ ba ở Lào. Ở Cam-pu-chia, lực lượng kháng chiến không ngừng phát triển và nhanh chóng giành được ưu thế quân sự trên chiến trường, giải phóng được hơn 2/3 đất đai gồm hầu hết các vùng nông thôn, thị trấn, thị xã. Thế và lực của cách mạng ba nước Đông Dương ngày càng phát triển. Các vùng giải phóng ba nước được nối liền và mở rộng, hình thành thế liên hoàn vững chắc, tạo điều kiện để lực lượng vũ trang ba nước tiếp tục phát huy sức mạnh, cùng đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ đi đến ngày thắng lợi hoàn toàn.

Phát huy thành quả đạt được, bước sang năm 1975, bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào và cách mạng Cam-pu-chia tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Ngày 17-4-1975, Thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Cam-pu-chia kết thúc không chỉ là kết quả đấu tranh của một dân tộc có truyền thống kiên cường, bất khuất, được phát huy cao độ bởi một đường lối đúng đắn, sáng tạo, mà còn là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, trong đó có sự hỗ trợ, giúp đỡ của nhân dân Việt Nam anh em, bởi “trong những tháng đầu của cuộc kháng chiến (kể từ tháng 3, tháng 4-1970) người Bắc Việt Nam đã dựng lên một lá chắn không thể chối cãi được… nhờ thế các lực lượng vũ trang Khơ-me còn trứng nước đã có thì giờ phát triển và tăng cường; để rồi 5 năm sau, vào tháng 4-1975, đủ sức đánh bật quân Mỹ ra khỏi lãnh thổ Cam-pu-chia và chiếm lại Thủ đô Phnôm Pênh cùng các thành phố lớn khác trong cả nước”(3).

Nắm vững thời cơ chiến lược do cách mạng Việt Nam và Cam-pu-chia tạo ra, tháng 5-1975, Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã kiên quyết và kịp thời phát động đấu tranh bằng “ba đòn chiến lược” (nổi dậy của quần chúng, tiến công bằng quân sự và gây áp lực, nổi dậy ly khai của một bộ phận binh sĩ) và “mũi đấu tranh pháp lý” giành quyền làm chủ trong cả nước, dẫn đến sự ra đời của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày 02-12-1975.

Như vậy, với thắng lợi trong cùng một thời gian tương đối gần nhau, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương đã kết thúc vẻ vang. Đảng Lao động Việt Nam nhận định: “Thắng lợi của chúng ta cũng là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, của mối quan hệ đặc biệt đã có từ lâu trong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng chống kẻ thù chung của ba dân tộc”(4).

Bạn có biết?

Lịch sử là môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này. Những học giả viết về lịch sử được gọi là nhà sử học. Các sự kiện xảy ra trước khi được ghi chép lại được coi là thời tiền sử.

Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thư

Tâm sự 11

Lớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247