Trang chủ Ngữ văn Lớp 10 viết đoạn văn nêu cảm nhận của em sau khi...

viết đoạn văn nêu cảm nhận của em sau khi học bài Độc Tiểu Thanh kí câu hỏi 3204154 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

viết đoạn văn nêu cảm nhận của em sau khi học bài Độc Tiểu Thanh kí

Lời giải 1 :

Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, ông là nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác văn học đồ sộ ghi dấu ấn trong lòng người đọc. trong đó bài “ Độc tiểu thanh kí” (trích Thanh Hiên Thi Tập) là bài thơ để lại nhiều cảm xúc cho người đọc nhất, bởi tâm trạng xót thương của tác giả về những số phận lênh đênh.

Hai câu mở đầu tác giả đã giới thiệu về cảnh đẹp của vườn hoa bên Tây Hồ, nơi mà nàng Tiểu Thanh đã từng sống:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.”

Không gian Tây Hồ vẫn còn đây, khuôn viên của một vườn hoa với những bông hoa thắm đẹp giờ đã không còn nữa. Vườn hoa đã thành gò hoang, gò hoang vắng đã thay thế cho vườn hoa. Cái “hữu” đã thành cái không, cái “đẹp” đã bị thay bởi cái “tàn tạ” hủy diệt. Từ “tẫn” mang ý nghĩa phủ định tuyệt đối; đã thay đổi hết không còn một dấu vết gì nữa. Đứng ở hiện tại Nguyễn Du bâng khuâng nuối tiếc cái đẹp trong quá khứ. Câu thơ vừa là lời cảm khái trước vẻ đẹp của Tây Hồ bị hủy hoại nhưng cũng là những chiêm nghiệm của nhà thơ về cuộc đời.

Cảnh đẹp Tây Hồ cũng đã gợi nhắc đến nàng Tiểu Thanh một người tài hoa đã sống những năm cuối đời ở đây và gửi thân mãi mãi nơi này. Nhà thơ đã ngồi một mình bên cửa sổ, lặng lẽ cảm thương cho số phận của Tiểu Thanh. Câu thơ đã khắc vào lòng người một cảnh ngộ đơn độc không có người sẻ chia phải tìm về quá khứ. Chính nỗi đau và sự cô đơn đã trở thành sợi dây kết nối hai con người xa lạ, vượt thời gian không gian để tri âm với nhau. Hình ảnh “ mảnh giấy tàn” là hình ảnh khơi gợi cảm hứng của Nguyễn Du đến số phận cuộc đời Tiểu Thanh:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”.

Son, phấn là những vật dụng trang điểm gắn liền với người phụ nữ, hình ảnh ẩn dụ cho nhan sắc, vẻ đẹp của Tiểu Thanh. Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Hai câu thơ đã cho thấy nàng Tiểu Thanh vừa tuyệt sắc, tuyệt tài, số phận ngang trái đồng thời tác giả cũng lên án xã hội bất nhân đã không tạo cho một môi trường thực sự nhân văn tiến bộ. Điều quan trọng là Tiểu Thanh giỏi làm thơ nhưng thơ bị đem đốt và bản thân nàng yểu mệnh chết sớm. Thương cảm với nàng Tiểu Thanh giỏi làm thơ là Nguyễn Du trân trọng người nghệ sĩ, thấy ý nghĩa xã hội trong sự cống hiến của người nghệ sĩ.

Từ câu chuyện nàng Tiểu Thanh giỏi làm thơ 200 năm trước sang hai câu luận nó đã tỏa sáng cuộc đời chung của những khách văn chương:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư”.

Từ nỗi oan của Tiểu Thanh đã thành nỗi oan nỗi hận của những người tài hoa. Hận là người có sắc, có tài đều không gặp may mắn, đều đoản mệnh hoặc bị dập vùi. Nỗi hận ấy là hóa giải thành ra câu hỏi muôn đời không có lời đáp “ thiên nan vấn”. Nguyễn Du cũng tự nhận thấy mình là người có tài mà cuộc đời long đong tự nhận là thể hiện ý thức cá nhân sâu sắc ý thức cả về tài năng và nỗi đau. Từ nỗi xót đau trong quá khứ đến hiện tại, trước nỗi đau của những người tài hoa trong đó có mình, tác giả đã không thể kìm nén những tâm sự của riêng mình, bật ra dưới hình thức câu hỏi tu từ, hướng về hậu thế.

Đến hai câu kết, là nỗi khát mong của người nghệ sĩ muôn đời mong được tri âm, đồng cảm:

“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.

Ba trăm năm là khoảng thời gian xác định nhưng rất dài. Nó là khoảng thời gian đủ để mọi việc lui vào quá khứ cái còn cái mất. Cả câu thơ là hơn ba trăm năm sau liệu trên thế gian này có người nào khóc Tố Như. Ông khắc khoải mong chờ một sự cảm thông của hậu thế. Vậy là từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng tới số phận mình. Chiếc gạch nối xuyên thời gian, không gian ấy có ý nghĩa như một yêu cầu phổ quát đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại về thái độ nhân hậu, trước hết là sự cảm thông đối với cái đẹp, sự hoàn thiện hoàn mĩ thể chất và tâm hồn con người. Nguyễn Du là con người bị bế tắc, mong được giải thoát mà vẫn không tìm thấy đường ra. “ Khấp” là đến tận cùng của sự đau thương. Khấp là khóc cho Nguyễn Du cũng như bao người tài hoa như ông.

Bài thơ là lời ký thác tâm sự của Nguyễn Du, con người đầy tài năng, hoài bão lớn mà luôn gặp hoạn nạn, trắc trở trên con đường đời gập ghềnh giữa đêm đen xã hội phong kiến. Con người ấy giàu lòng yêu thương nhân hậu, luôn khao khát sự cảm thông của người đời

Thảo luận

-- bạn ơi mình cần bài làm tham khảo ko cần chép mạng ạ http://soanbailop10.com/cam-nhan-ve-bai-tho-doc-tieu-thanh-ki-cua-nguyen-du-nd6104.htm

Lời giải 2 :

Một tác phẩm chân chính là một tác phẩm vượt qua bờ cõi, và giới hạn, chứa đựng những điều vừa lớn lao, vừa đau khổ, ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình nó làm cho người gần người hơn. “Đọc Tiểu Thanh kí” của thi hào Nguyễn Du là một áng thơ như vậy, nó đã vượt qua bờ cõi và giới hạn của Việt Nam và Trung Quốc để bằng tấm lòng bao la, đồng cảm của mình Nguyễn Du tri âm với nàng Tiểu Thanh bạc mệnh, bài thơ gửi gắm những triết lí sâu sắc và những giá trị nhân văn sâu sắc.

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Du đã vẽ ra một cảnh tượng hoang vu đến tàn tạ:

Cảnh đẹp Tây Hồ xưa kia đẹp đẽ và thơ mộng bao nhiêu thì giờ đây lại chẳng còn lại gì, chỉ còn là một bãi hoang phế, đổ nát. Động từ “tẫn” diễn tả sự biến đổi một cách đột ngột đến mức triệt để không còn dấu vết gì, đứng giữa hiện tại nhà thơ bâng khuâng nuối tiếc cái đẹp trong quá khứ. Câu thơ mở đầu vừa là niềm cảm thương nuối tiếc cho cái đẹp trong quá khứ bị hủy hoại để cho thấy những dâu bể của cuộc đời thì ở đó số phận của cái đẹp chịu sự chi phối nghiệt ngã của thời gian vô tình “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường”. Cái đẹp ấy gợi nhắc đến nàng Tiểu Thanh - một người con gái xinh đẹp, tài hoa, đã sống những năm tháng cay đắng, cô đơn ở hiện tại này.

Với hai chữ “độc, điếu” câu thơ đã khắc họa vào lòng người đọc một cảnh ngộ cô đơn phải tìm về quá khứ để chia sẻ. Chính nỗi đau và sự cô đơn đã trở thành sợi dây kết nối vượt thời gian không gian để tri âm, tri kỷ với nhau, hiểu lòng nhau và đồng cảm sâu sắc cho nàng Tiểu Thanh của Nguyễn Du. Hai câu thơ đầu, với hình ảnh đối lập nhà thơ đặc biệt bộc lộ tấm lòng đồng cảm thương xót cho số phận bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh. Hình ảnh mảnh giấy tàn ở câu thơ thứ hai tiếp tục khơi tiếp cho câu thơ thực:

Son phấn đó vừa thực, vừa là ẩn dụ cho nhan sắc, vẻ đẹp của Tiểu Thanh. Văn chương là tác phẩm nghệ thuật, sáng tạo tinh thần của người nghệ sĩ, tâm huyết và tài năng của Tiểu Thanh. Tiểu Thanh có linh thiêng chắc phải bận lòng, xót xa những việc sau khi chết. xót xa là vì đã chết trong đau đớn, cô độc uất hận sầu khổ nhưng người vợ cả vẫn không buông tha, vẫn cứ giày vò nàng thêm một lần nữa. Văn chương có số mệnh gì vậy mà cũng bị đem đốt, bị hủy diệt. hai câu thơ thực là bức phác họa chân dung của Tiểu Thanh vừa tài hoa, tuyệt sắc nhưng cái tài bị đốt, cái sắc bị chôn, đều bị hủy diệt. vẫn là nghệ thuật đối cân chỉnh để qua đó bộc lộ nỗi thương cảm xót xa Của nhà thơ trước số phận bạc mệnh của cái đẹp, cái tài chân chính. Đồng thời tố cáo xã hội phong kiến bất công là môi trường khiến cái đẹp, cái tài bị hủy hoại, không có chỗ dung thân. đó cũng là thuyết bạc mệnh mà Nguyễn Du đã nêu ra, rằng trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Hai câu luận:

Nỗi hận xưa nay về số mệnh bất công của con người là câu hỏi muôn thuở, nhưng câu hỏi ấy mãi mãi chỉ là sự vô vọng không có lời giải đáp cụ thể, trời cũng bất lực. Câu thơ viết bằng giọng oán trách, bất bình về nỗi bất công khi cái tài cái sắc luôn bị vùi dập, hủy diệt, Nguyễn Du gửi gắm vào đó nỗi xót xa khi nhận ra đó cũng là số phận chung của những khách phong vận. tự nhận mình là người mắc nỗi oan lạ, cũng là kẻ cùng trường bạc mệnh, đó là sự thể hiện ý thức cá nhân sâu sắc về tài năng và nỗi đau, nhưng còn có sự đồng cảm, thương xót với nỗi đau của người cùng khách phong vận. Tình thương ấy vừa mênh mông, vừa sâu sắc. Qua đó bày tỏ nỗi thấm thía bất công muôn đời của người tài hoa. Đến hai câu kết, là nỗi khát mong của người nghệ sĩ muôn đời mong được tri âm, đồng cảm:

Không biết hơn 300 năm lẻ sau, có ai khóc thương Tố Như không. Nhà thơ mong rằng mình có người biết đến bởi sự thấu hiểu và đồng cảm của những người cùng là khách phong vận, mê đắm văn chương. Kì thực, Nguyễn Du đã nêu lên khát vọng muôn đời của người nghệ sĩ, trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, họ luôn mong muốn nhận được sự tri âm, đồng cảm sâu sắc bởi thi sĩ muôn đời luôn luôn gặp nhau ở một điểm đó là sự cô đơn.

Đọc Tiểu Thanh kí” là tiếng khóc thương người đồng thời cũng là tiếng khóc thương mình, đó là trái tim nhân đạo bao la vừa mênh mông vừa sâu thẳm của Nguyễn Du. Bài thơ tuân thủ những quy tắc nghiêm túc và chặt chẽ của quy luật thơ Đường, từ ngữ cô đọng, hàm súc, hình ảnh giàu tính biểu tượng đã làm nên sức sống nghìn thu của “Đọc Tiểu Thanh kí” và trên hết là tấm lòng nhân đạo sâu sắc của thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247