Trang chủ GDCD Lớp 12 Em hãy nêu các quan điểm của Đảng và nhà...

Em hãy nêu các quan điểm của Đảng và nhà nước ta về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân câu hỏi 3268072 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

Em hãy nêu các quan điểm của Đảng và nhà nước ta về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân

Lời giải 1 :

Sau hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN (1986-2018), đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng. Trong đó, Đảng và Nhà nước đã có những đổi mới tư duy về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; thường xuyên nghiên cứu, đánh giá tình hình quốc tế, khu vực và trong nước; xác định rõ đối tượng tác chiến chiến lược, âm mưu, thủ đoạn và hành động phá hoại của các thế lực thù địch đối với nước ta. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được củng cố. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế ngày càng chặt chẽ hơn. Triển khai tích cực hoạt động đối ngoại quân sự, mở rộng quan hệ với quân đội các quốc gia và vùng lãnh thổ, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định, phát triển trong khu vực và trên thế giới. 1. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong thời kỳ mới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) chủ trương  xây dựng nền quốc phòng toàn dân được xác định một cách cụ thể trong mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng đất nước: chúng ta phải thấu suốt quan điểm “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”. Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của hệ thống chuyên chính vô sản trong việc đẩy mạnh xây dựng hậu phương toàn diện được coi là nhiệm vụ có tính chiến lược trong thời kỳ mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991), ngoài việc quan tâm đến việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên bình diện rộng, trên toàn bộ lãnh thổ, để chủ động bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền quốc gia trong mọi tình huống, Đảng còn nhấn mạnh tới việc xây dựng các khu phòng thủ ở các địa phương; sự cần thiết phải xây dựng các công trình quốc phòng trọng điểm, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) đề ra những quan điểm chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN: Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế. Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai nhiệm vụ đó có liên quan chặt chẽ với nhau trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc; phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ Tổ quốc; thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh. Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an, đối với củng cố quốc phòng và an ninh.  Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001) đề ra chủ trương lớn về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”;[1] nhấn mạnh tới nhiệm vụ kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ quan điểm nhận thức về xây dựng nền quốc phòng toàn dân; sức mạnh tổng hợp của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng củng cố quốc phòng là trọng yếu, thường xuyên. Thống nhất đánh giá đối tượng, đối tác trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Chủ động dự báo đúng các tình huống chiến lược, trên cơ sở nắm vững âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, những biến động của tình hình thế giới và trong nước tác động đến nhiệm vụ quốc phòng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1-2011) xác định: Tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó quân đội nhân dân, công an nhân dân là nòng cốt. Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự, an toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1-2016) nêu rõ mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…”[2] Tháng 7 năm 2003, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) và tháng 10-2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là một bộ phận trọng yếu của chiến lược an ninh quốc gia, nhằm cụ thể hóa đường lối tăng cường quốc phòng - an ninh của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế theo tinh thần theo Nghị quyết các Đại hội của Đảng xác định; đó là một chiến lược tổng hợp, toàn diện, do Đảng và Chính phủ đề ra. 2. Một số thành tựu và những thách thức thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới Nhìn lại những năm đổi mới vừa qua, trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói chung và việc thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc nói riêng, chúng ta đã đạt được những thành tựu cơ bản sau: Một là, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước. Hai là, nền quốc phòng toàn dân được xây dựng ngày càng vững mạnh toàn diện; có bước phát triển mới cả về bề rộng và chiều sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ba là, chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân không ngừng được nâng cao. Bốn là, hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng không ngừng được đẩy mạnh, có bước phát triển đột phá cả về nhận thức và hành động; góp phần nâng cao vị thế của đất nước, Quân đội và xây dựng lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác trong khu vực và trên thế giới. Năm là, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất, tập trung của Nhà nước và sự tham gia của toàn dân đối với lĩnh vực quốc phòng. Đây là thành tựu rất quan trọng trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng hơn 30 năm đổi mới. Thực tiễn cho thấy, quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, xuyên suốt trong mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng và quản lý, thống nhất của Nhà nước. Theo đó, quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta từng bước thể chế hóa cương lĩnh, quan điểm, đường lối của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; về quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với đối ngoại thành luật pháp, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để các cấp, ngành, lực lượng và địa phương triển khai thực hiện. Thành tựu đổi mới quân sự, quốc phòng hơn 30 năm qua đã góp phần to lớn vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới đất nước. Bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế, bất cập, đó là: Nhận thức về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế, nhất là nhận thức về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược; về sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; về đối tác, đối tượng... Việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân tuy có chuyển biến tích cực nhưng chưa toàn diện, vững chắc.[3] Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ', "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có những diễn biến phức tạp. Đó thực sự là những thách thức, khó khăn trong thực thi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới. Những thành tựu, kinh nghiệm của hơn 30 năm đổi mới (1986 - 2018) đã tạo ra cho đất nước lực và thế mới, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Trong đó, lĩnh vực quân sự, quốc phòng đạt được những kết quả quan trọng với những thành tựu to lớn và bài học kinh nghiệm quý báu. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được tăng cường; Quân đội nhân dân có bước trưởng thành, cùng với toàn dân bảo vệ được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ được môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đây sẽ là tiền đề, nền tảng quan trọng để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hướng tới mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Nhớ vote 5sao

Thảo luận

Lời giải 2 :

Quan điểm chỉ đạo chiến lược này vừa kế thừa một cách xuất sắc truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, vừa thể hiện sự sáng suốt, tài tình và sáng tạo của Đảng ta, trong bối cảnh đất nước và quốc tế có nhiều biến đổi to lớn, phức tạp và khó lường. Mỗi cán bộ, đảng viên và toàn dân cần nhận thức sâu sắc và đồng tâm, hợp lực xây dựng nền QPTD ngày càng vững mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Cụ thể hóa về vấn đề này, Luật Quốc phòng xác định rõ: “Nền QPTD là sức mạnh quốc phòng của đất nước, được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường”(1). Qua đó cho thấy, Luật Quốc phòng đã chỉ rõ nền tảng và tính chất của nền QPTD nước ta. Đó là một nền quốc phòng vừa thể hiện một cách sâu sắc, nhất quán cốt cách truyền thống của dân tộc, vừa phát huy được mọi yếu tố vật chất và tinh thần của quốc gia và quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trong suốt chiều dài hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, xuất phát từ điều kiện kinh tế, quy mô dân số, địa hình, thổ nhưỡng và thời tiết của nước ta, các bậc tiền bối đã lựa chọn cho dân tộc những kế sách dựng nước và giữ nước hết sức tài tình. Kế sách hàng đầu và mang tính xuyên suốt của ông cha ta là lấy dân làm gốc, trên nền tảng đó xây dựng nên một nền QPTD. Xét về bản chất, đó là nền quốc phòng của dân, do dân và vì dân. Chính nhờ vào một nền quốc phòng như vậy, dân tộc ta đã lần lượt đánh bại các đạo quân xâm lược có lực lượng và vũ khí, trang bị vượt trội, làm nên những chiến công oanh liệt, hào hùng, như: Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng; quân dân nhà Lý đánh bại quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt; nhà Trần 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông; nghĩa quân Lam Sơn chém đầu Liễu Thăng ở ải Chi Lăng, tiến lên đánh bại hoàn toàn quân xâm lược nhà Minh; Quang Trung đại phá 29 vạn quân Thanh, giữ vững non sông gấm vóc.

Ảnh minh họa / qdnd.vn

Cần nhận thức một cách sâu sắc rằng, ở nước ta, bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ lực lượng thống trị nào, nếu không tuân thủ chiến lược QPTD, chiến tranh nhân dân (CTND) thì đều đưa đất nước đến hiểm họa. Thực tiễn chứng minh, thời nhà Hồ (1400-1407), mặc dù có hàng chục vạn quân, vũ khí, trang bị không thua kém đối phương nhưng vì mất lòng dân nên đã để đất nước rơi vào tay quân xâm lược nhà Minh. Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã phải "nếm mật nằm gai" huy động sức mạnh của toàn dân, sau 10 năm trường kỳ kháng chiến mới giành lại được độc lập, tự do cho dân tộc. Nhà Mạc (1527-1592) cũng không được lòng dân nên không làm nên nghiệp lớn mà làm cho đất nước rơi vào cảnh huynh đệ tương tàn, bị phân chia thành hai triều đại (Nam-Bắc triều). Đó là những bài học đau xót trong lịch sử dân tộc mà mỗi chúng ta ngày nay cần phải ý thức sâu sắc, không bao giờ được để lặp lại.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của nền QPTD, thế trận CTND đã không ngừng được củng cố, tăng cường và phát huy hiệu quả, tạo nên thế và lực có lợi cho cách mạng Việt Nam. Chính vì thế, chúng ta đã làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc được giải phóng tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Bằng nhiều chiến dịch anh dũng, kiên cường, như: Xuân Mậu Thân 1968; mùa hè đỏ lửa 1972 ở Quảng Trị; "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không" đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược của Mỹ cuối năm 1972 (Linebacker II)... kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", giành thắng lợi hoàn toàn, thu non sông về một mối.

Trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp, khó lường, hiện nay, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán khẳng định, xây dựng nền QPTD vững mạnh là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, trong đó, Quân đội nhân dân (QĐND) là lực lượng nòng cốt. Nền quốc phòng của chúng ta là nền quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ và mang bản chất của chế độ XHCN. Nhiệm vụ của nền quốc phòng không chỉ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mà còn phải bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời thường nhắc nhở: Phải xây dựng nền QPTD, toàn diện; nghĩa là nhân dân phải là chủ thể của nền quốc phòng, mọi người dân đều có trách nhiệm và nghĩa vụ tham gia xây dựng nền quốc phòng vững mạnh toàn diện. Tính chất toàn dân, toàn diện trong xây dựng nền quốc phòng có mối quan hệ nhân-quả, tạo tiền đề cho nhau và là cơ sở tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền QPTD, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trong những năm qua, sự nghiệp xây dựng nền QPTD của chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 tại Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các giải pháp phù hợp để bảo vệ chủ quyền quốc gia và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển kinh tế-xã hội. Thế trận QPTD, an ninh nhân dân được củng cố và gắn kết chặt chẽ hơn. Sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của QĐND, Công an nhân dân được nâng lên...”(2). Kết quả trên là sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.

Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tích cực tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng nền QPTD, thế trận CTND. Nổi bật là Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới... Bộ Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp nghiên cứu, xây dựng trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các luật, pháp lệnh như: Luật Quốc phòng; Luật Dân quân tự vệ; Luật Cảnh sát biển; Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên (đang tham mưu ban hành Luật Lực lượng dự bị động viên); Pháp lệnh về bảo vệ các công trình quốc phòng và khu quân sự... Tham mưu với Đảng, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự Việt Nam; chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng... Tham mưu với Chính phủ ban hành các nghị định về khu vực phòng thủ... Đây là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền QPTD nói chung và nhiệm vụ quân sự, quốc phòng nói riêng, bảo đảm chặt chẽ, đúng quan điểm, đường lối của Đảng.

Trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các cấp, các ngành, các địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng QPTD, gắn với thế trận CTND ngày càng vững chắc. Ban chỉ đạo về xây dựng khu vực phòng thủ đã được xây dựng, kiện toàn đầy đủ, theo hệ thống từ Trung ương tới các địa phương. 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tích cực huy động các nguồn lực đầu tư vào việc xây dựng và hoàn thiện khu vực phòng thủ. Tiềm lực trong khu vực phòng thủ không ngừng được củng cố, tăng cường; trong đó, tiềm lực chính trị, tinh thần được đặc biệt coi trọng. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống cơ quan dân-chính-đảng các cấp đều được bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến thức về quốc phòng, an ninh. Các tầng lớp nhân dân được tuyên truyền, giáo dục về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm trong xây dựng nền QPTD thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và công tác tuyên truyền trực tiếp ở cơ sở. Nhận thức, trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của cán bộ, nhân dân từng bước được nâng cao, góp phần bảo đảm cho các hoạt động quân sự, quốc phòng ở cơ sở được triển khai thực hiện và hoàn thành đúng mục tiêu, yêu cầu đề ra. Nhiều tỉnh, thành phố đã chú trọng đầu tư kinh phí từ nguồn ngân sách địa phương để xây dựng các khu căn cứ tập trung, hệ thống công trình quốc phòng, tổ chức quy hoạch căn cứ hậu cần-kỹ thuật, bảo đảm cho thế trận phòng thủ trên từng địa bàn dần hình thành trên thực địa; đồng thời tổ chức tốt công tác diễn tập khu vực phòng thủ ở các cấp theo kế hoạch nhằm kiểm nghiệm sự vận hành cơ chế về tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, động viên lực lượng, cơ sở vật chất khi chuyển các địa phương từ thời bình sang thời chiến. Sự hoàn chỉnh của khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố đã góp phần tạo nên thế trận phòng thủ liên hoàn, vững chắc trên toàn quốc, làm cơ sở để chuyển hóa từ thế trận QPTD sang thế trận CTND khi có tình huống xảy ra.

Cùng với việc xây dựng khu vực phòng thủ ở các địa phương, lực lượng vũ trang 3 thứ quân cũng không ngừng được củng cố, tăng cường về mọi mặt. Quân ủy Trung ương đã ban hành các nghị quyết về sắp xếp bộ máy tổ chức, biên chế theo hướng tinh, gọn, mạnh, làm cơ sở để xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; trong đó ưu tiên một số đơn vị, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Hiện nay, Quân đội ta đã được tổ chức, sắp xếp lại, bảo đảm chặt chẽ, khoa học, với đầy đủ các lực lượng, thành phần, cơ cấu hợp lý; được trang bị các phương tiện, vũ khí, trang bị kỹ thuật tương đối hiện đại, huấn luyện thuần thục, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu cao, khả năng cơ động nhanh, tác chiến hiệu quả cả trên không, trên bộ, trên biển và không gian mạng. Thông qua các cuộc diễn tập tác chiến cấp chiến dịch, chiến lược mới đây đã kiểm nghiệm, đánh giá đúng khả năng cơ động, hiệp đồng, năng lực tác chiến của các quân chủng, binh chủng, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, giữ vững vai trò nòng cốt trong xây dựng nền QPTD, thế trận CTND.

Chung quy lại, quan điểm chỉ đạo chiến lược của Đảng về xây dựng nền QPTD là sự kế thừa xuất sắc truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Quan điểm chỉ đạo chiến lược này đã được thực tiễn kiểm nghiệm qua các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta trong nửa cuối thế kỷ 20 và những thập niên đầu của thế kỷ 21 cho thấy, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Bác Hồ muôn vàn kính yêu là rất sáng suốt, tài tình và hết sức sáng tạo. Là con dân của nước Việt Nam thân yêu, chúng ta có quyền tự hào về điều đó và nguyện đem hết sức mình cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng nền QPTD ngày càng vững mạnh, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Bạn có biết?

Giáo dục công dân (GDCD) là một hệ thống kiến thức liên quan đến nhiều lĩnh vực như triết học, đạo đức học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, một số chính sách quan trọng của Nhà nước Việt Nam.

Nguồn : kiến thức

Tâm sự 12

Lớp 12 - Năm cuối ở cấp tiểu học, năm học quan trọng nhất trong đời học sinh trải qua bao năm học tập, bao nhiêu kì vọng của người thân xung quanh ta. Những nỗi lo về thi đại học và định hướng tương lai thật là nặng. Hãy tin vào bản thân là mình sẽ làm được rồi tương lai mới chờ đợi các em!

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247