Trang chủ Ngữ văn Lớp 10 Nét mới của chủ nghĩa nhân đạo trong bài thơ...

Nét mới của chủ nghĩa nhân đạo trong bài thơ "Đọc Tiểu Thanh Kí" - Nguyễn Du Ngắn gọn nhất nhé câu hỏi 3288987 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

Nét mới của chủ nghĩa nhân đạo trong bài thơ "Đọc Tiểu Thanh Kí" - Nguyễn Du Ngắn gọn nhất nhé

Lời giải 1 :

Nhất chỉ thư" " độc" trong "độc điếu", làm giảm đi ý nghĩa của câu thơ. → Cô đơn nhưng tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất hạnh. => Sự đồng cảm của Nguyễn Du * Hai câu thực: Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư - Son phấn: Sắc đẹp - Văn chương: Tài hoa → Ca ngợi sắc đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh. - "Chôn", "đốt" là những động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập phũ phàng của người vợ cả đối với nàng Tiểu Thanh => Thái độ của xã hội phong kiến không chấp nhận những con người tài sắc. → Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: Tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân...cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập → Bên cạnh triết lý đó còn có sự ca ngợi, sự khẳng định trường tồn, bất tử của cái đẹp, tài năng ("vẫn hận, còn vương") => Giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du, sự xót xa cho những người vì sắc vì tài mà bị hủy hoại. * Hai câu luận: Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư - "Cổ kim hận sự": Mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp. - Mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh. → Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến.

Thảo luận

Lời giải 2 :

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc là danh nhân văn hóa thế giới, là nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông để lại cho đời số lượng lớn bài thơ trong đó có những sáng tác đạt đến trình độ cổ điển và mẫu mực, Trong đó phải kể đến bài thơ " Độc tiểu thanh kí", bài thơ được khơi nguồn từ hình ảnh người con gái tài hoa bạc mệnh.

Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Cô được biết đến là người con gái thông mình, nhiều tài nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. 16 tuổi cô về làm vợ lẽ cho một nhà quyền quý. Vì vợ cả hay ghen bắt cô phải sống một mình trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. 

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

Câu thơ không nhằm mục đích miêu tả cảnh đẹp Tây Hồ mà ngụ ý tác giả chỉ là mượn không gian để nói lên suy nghĩ, cảm nhận về sự biến đổi trong cuộc sống. Tây Hồ vốn được biết đến là cảnh đẹp có tiếng nhưng với cuộc đời của nàng Tiểu Thanh thì cảnh đẹp nơi ấy "hóa gò hoang". Người nằm dưới lòng "gò hoang" kia là nàng Tiểu Thanh bạc mệnh chỉ để lại trên trần thế "mảnh giấy tàn" là phần di sản của Tiểu Thanh.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư

(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)

Mượn hình ảnh "son phấn" và " văn chương" ngụ ý nhắc đến nàng Tiểu Thanh. Cả cuộc đời nàng chỉ biết làm bạn với son phấn và văn chương để vơi đi những buồn tủi, bất hạnh. Nhà thơ dùng từ "son phấn" để ẩn dụ khi nói về nhan sắc của nàng Tiểu Thanh nhưng cái đẹp ấy lại bị vùi dập không thương tiếc.

Dù đã chết "chôn" nhưng linh hồn nàng vẫn chưa siêu thoát vẫn ôm một nỗi "hận" trần thế. "Hận" vì sự ghen tuông vô lý của bà vợ cả đã đẩy nàng vào cái chết khi tuổi vừa mới 18 đôi mươi nên vẫn còn lại một số bài. Từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến trong hai câu luận tiếp theo:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)

Dường như nỗi oan ức của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng mỗi nàng mà là cái án, cái kết thúc chung của những con người "tài hoa bạc mệnh" có từ thời "cổ" chí "kim". Nhà thơ dùng từ "hận sự" như muốn nhắc đến một mối hận suốt đời nhắm mắt cũng không thể quên. Đó cũng là một số phận sinh ra trong xã hội phong kiến tài sắc chẳng kém ai vậy mà cuộc đời nàng lênh đênh, bạc mệnh quá. Nhà thơ Nguyễn Du đã từng viết 2 câu thơ ngậm ngùi, xót xa:

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Những oan khuất của nghìn đời ấy chỉ có trời mới hiểu "trời khôn hỏi" nhưng dẫu có biết thì cũng không thể làm gì được. Đó như một cái án của nhiều nạn nhân, nhiều con người trong cái xã hội lúc bấy giờ phải "tự mang". Hai câu thơ khóc thương người nhưng dường như cũng để thương mình của Nguyễn Du đã thể hiện được tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo và cách nhìn sâu sắc của ông. Khép lại bài thơ với hai câu kết là những dòng suy tư, cảm nghĩ của chính nhà thơ về thời thế, thời cuộc:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng)

Khóc cho Tiểu Thanh của ba trăm năm trước bằng sự đồng điệu về suy nghĩ, thấu hiểu về cảm xúc nhưng nhà thơ đã tự vấn, hoài nghi và đặt câu hỏi cho chính mình. Một câu hỏi chứa đựng nhiều xót xa, nếu như ba trăm năm sau những vần thơ của Tiểu Thanh vẫn còn có Nguyễn Du thương cảm nhưng liệu ba trăm năm sau có còn "ai khóc Tố Như chăng".

“Độc Tiểu Thanh ký” là một bài thơ để lại những thương cảm trong lòng người đọc về số phận bất hạnh của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đây, tác giả cũng đã phản ánh thực trạng xã hội phong kiến tàn ác đã đẩy con người vào những bước đường cùng, chà đạp lên nhân phẩm và lãng quên những giá trị mà họ đã để lại cho đời.

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247