Sưu Tầm: HauVanVo “ĐÓ LÀ NIỀM VUI LỚN CỘNG VỚI NỖI ĐAU DÀI TÍCH LẠI CHO ĐỜI THÀNH CHẤT NGỌC ỨC TRAI” I. M bài Giới thiệu một vài nét về Nguyễn Trãi: vị anh hùng văn võ song toàn, người đã cùng Lê Lợi làm nên sự nghiệp “bình Ngô” và tho “Bình Ngó chứ cáo”: đnh cao ca nền văn hóa Đại Việt trong thế k 15 “viết thư tho hịch tài gii hơn hết một thời”, là tác gi hai tập thơ “ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”. Nhưng Nguyền Trãi cũng là một người phi chịu những oan khiên thm khốc, do xã hội cũ gây nên tới mức hiếm có trong lịch sử dân tộc. Suy cm vẻ Nguyễn Trãi, nhà thơ Phạm Hổ viết: II- Thân bài 1. Gii thích qua khái niệm: Niềm vui lớn: Niềm vui ta rộng trong không gian và thời gian, niềm vui ca một người chan hòa trong niềm vui ca dân tộc; niềm vui ca cá nhân gắn liền với hạnh phúc cộng đồng… Ni đau dài: Ni đau tê tái, trĩu lòng, triền miên theo năm tháng; ni đau ca một con người, cái khổ đau ca một con người gắn với ni khổ đau ca dân lộc, kéo dài trong thời gian. chất ngọc ức Trai: Một hình nh ẩn dụ tuyệt đẹp. Ngọc là tên chung ca các loài đá quý, cũng có loại thể tròn, rắn, bóng, màu sắc óng ánh trong cơ thể một số động vật: như ngọc trai. chất ngọc ức Trai: mọi tài năng, mọi thành tựu về quân sự, về văn hóa… mà Nguyễn Trãi để lại cho dân tộc, làm đẹp cho đất nước… Tóm lại, hai câu thơ ca Phạm Hổ, bằng hình tượng đẹp, một lối nói độc đáo đã ca ngợi tài năng li lạc ca Nguyễn Trãi, đnh cao ca trí tuệ về quân sự và văn hóa Đại Việt trong thời phong kiến. Tâm hồn ca ức Trai (niềm vui lớn, ni đau dài) đã hòa nhịp với vận mệnh ca non sông, ca dân tộc. 2. Phần phân tích thơ văn để chứng minh Lưu ý: Không nên tách ra 3 vế (niềm vui lớn, ni đau dài, chất ngọc ức Trai) mà nên phân tích thơ để làm sáng tó ý nghĩa hai câu thơ đó. “Cuộc đời Nguyễn Trãi là c “niềm vui lớn với ni đau dài”. Nhà Trần hết vai trò lịch sử, nhà Hồ lên thay. Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi, c hai cha con đều làm quan với tân triều, ước mong đem tài kinh bang tế thế xây dựng quốc gia Đại Việt tr nên hùng mạnh. Giặc Minh hung tàn đã mang quân sang xâm lược nước ta: “Dối trời lừa dân đ muốn nghìn kế ! Gây binh kết oán tri hai mươi năm…”. Chúng đã tàn sát nhân dân ta một cách vô cùng dã man: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hm tai vạ”. Cha bị bắt, gia đình tan tác đau thương. Nguyễn Trãi bị giặc giam lng thành Đông Quan hơn mười năm trời. Ông đã tri qua những “ni đau dài”, lúc thì “trần trọc,… băn khoăn”, lúc thì “‘nếm mật nằm gai”, “đau lòng nhức óc”: Sưu Tầm: HauVanVo “Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống”. Nhục ca nước gắn liền với mối thù ca cha chất chứa trong lòng ông, hun đúc nên “ni đau dài”, để lại mối hận đến hàng nghìn năm (di hận k thiên niên). Nguyễn Trãi đã bí mật vào Lam Sơn tụ nghĩa, dâng “Bình Ngô sách” lên Bình Định Vương, tr thành vị quân sư xuất sắc giúp Lê Lợi chiến lược, chiến thuật, soạn tho công văn. thư từ địch vận: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo “Niềm vui lớn” là được đem tài năng xuất chúng để “tấn công” giặc, cùng nghĩa quân làm nên chiến thắng. Giặc Minh bị quét sạch ra khi bờ cõi, nước Đại Việt bước vào một k nguyên mới “muôn thu nén thái bình vững chắc”. Giọng văn “bài cáo bình Ngô“ lúc thì căm giận xót xa, lúc thì hân hoan bừng bừng khí thế chiến trận, lúc thì vui sướng tự hào. Đó là “niềm vui lớn cộng với ni đau dài ca ức Trai” và nhân dân Đại Việt vậy. Nguyễn Trãi đã được Lê Lợi y thác viết chiếu cầu hiền, làm chánh ch kho khoa thi tiến sĩ đầu tiên ca triều Lê. Nhưng rồi triều Lê bước vào thời kì khng hong: nhiều vị công thần bị giết hại, Nguyễn Trãi bị bắt oan, bị bọn quyền thần vô hiệu hóa. cuối cùng ông phi lui về Côn Sơn làm bạn với suối rừng. Và sau đó ông đã bị “tru di lam lộc” qua vụ án Lê Chi Viên. “Ni đau dài”, ni oan khiên bao trùm sông núi, môi “di hận” để lại muôn đời. chất ngọc ức Trai để lại cho đời (trọng tâm), Nguyễn Trãi là vị anh hùng dân tộc, vãn võ song toàn. ‘‘Quân trung từ mệnh tập” gồm những bức thư gửi tướng tá giặc Minh, đánh vào lòng” giặc, có sức mạnh bằng mười vạn quân. “Chài ngọc ức Trai” ta hào quang chiến thắng: “… Bó tùy để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mù người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công”. “Bình Ngô đại cáo” sáng ngời tư tưng nhân nghĩa: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo tr bạo”. Tràn ngập bài cáo là niềm tự hào dân tộc; tự hào về nền văn hiến lâu đời ca Đại Việt, tự hào về sức mạnh chiến thắng và truyền thống anh hùng ca nhân dân ta: “Gươm mài đá. đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn Đánh một trận sạch không kinh ngạc Đánh hai trận, tan tác chim muông”. Sưu Tầm: HauVanVo Con người Việt Nam không chi đại trí, đại dũng mà còn rất đại nhân: không giết tù binh, cấp lương thực, xe ngựa, thuyền bè cho hàng vạn giặc để chúng về nước sum họp với gia đình (trích dẫn ?) – chất ngọc ức Trai này cũng Là ca nhân dân ta kết tinh qua bốn nghìn năm dựng nước nên đẹp Khát vọng hòa binh (phân tích) “Xã tắc t dãy vững bn Giang san t đây đi mới (…) Muôn thuở nn thái bình vững chắc”. Có thể nói “Bình Ngô đại cáo” là “niềm vui lớn cộng với ni đau dài” để “tích lại cho đời thành chất ngọc ức Trai, để nó tr thành áng “thiên cổ hùng văn Nguyễn Trãi để lại cho dân tộc “ức Trai thi lập” và “Quốc âm thi tập”. tựa như hai viên ngọc quý và hiến trong nền thơ ca cổ Việt Nam. Ngôn ngữ cổ kính, đẹp đẽ, hình tượng và đề tài phong phú, đa dạng. Thơ hàm súc và giàu biểu cm. Một tấm lòng thương dân, lo đời ta rộng những vần thơ lung linh. + chất ngọc ức Trai sáng ngời nhất là lòng “ưu ái” (ưu quốc, ái dân: lo nước, yêu dân): + Là khát vọng đem tài năng phục vụ hạnh phúc ca con người; đề cao nhân nghĩa, lấy dân làm gốc: “Tr độc, tr tham, tr bạo ngược Có nhân, có trí. có anh hùng” + Là niềm tự hào với cnh sắc quê hương tươi đẹp. với núi sông hùng vĩ. Nguyễn Trãi coi Côn Sơn là “quê cũ” thân yêư. Thu bé ông đã cùng với mẹ sống nhiều năm cùng với ông ngoại là tướng công Trần Nguyên Đán côn Sơn. Sau này, ông lại lui về Côn Sơn ẩn. Nơi đây gắn liền với tâm hồn nhà thơ bao k niệm đẹp. Suối Cn Sơn là tiếng đàn êm ái ru hồn ông vào cõi mộng. Đá, trúc, thông… là bạn tri k ca ức Trai để cùng ông “ngh ngơi” rũ sạch bụi trần mà ngâm thơ nhàn: “Côn Sơn suối chảy rì rm Ta nghe như tiếng đàn cm bên tai (…) Trong rng có bóng trúc râm Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”… Nguyễn Trãi nói nhiều đến mùa xuân. Làn mưa bụi, tiếng cuốc gọi hè, hoa xoan trắng tím ta hương nồng, thm c, bến đò, con đò gối bãi… Cnh sắc và âm thanh mùa xuân đẹp bình dị, thân thuộc, hữu tình. Cnh vật như chan hòa với tâm hồn nhà thơ với bao ni niềm: chán công danh, xa lánh bọn quyền quý mà vẫn yêu thiên nhiên, yêu đời tha thiết (trích dẫn) Nguyễn Trãi hay nói đến đêm thanh và vầng trăng thu. Có lẽ ông muốn được sống những giây phút thần tiên trong đêm thanh tĩnh. Cuộc đời như mộng.. Cnh non nước đẹp như tranh thy mặc. Con đò thơ mộng nằm ng dưới vầng trăng: “Nước biếc non xanh thuyn gối bãi Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lu”. Có cạnh ngắm hoa giữa ngày vắng Có cnh uống rượu dưới trăng. Tâm hồn thanh cao. phong thái ung dung tự tại. chất ngọc ức Trai thêm lấp lánh dưới ánh trăng thu Danh lam thắng cnh: Núi Yên Tử, núi Dục Thúy, cửa biển Bạch Đằng… Núi sông hiểm tr là tử địa quân thù, là nơi để người anh hùng mang tài thao lược lập nên bao chiến công hiển hách làm rạng rỡ giống nòi. Cửa biển Bạch Đằng núi giăng thành lm chớm như “ngạc chặt kình băm ”, bãi bờ trập trùng nhấp nhô như muôn ngàn giáo gươm giặc chất chồng nên (trích dẫn) III. Kết bài Tóm lại, chất ngọc ức Trai tạo nên bn sắc ca thơ văn NguyễnTrãi. Sưu Tầm: HauVanVo Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi là bài ca yêu nước tự hào dân tộc. Triết lí nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân, tình yêu thiên nhiên là chất ngọc ức Trai mà ông để lại cho non sông Đại Việt. Ông đã đem “niềm vui lớn, ni đau dài” để viết nên những vần thơ tâm huyết. Đẹp biết bao Nguyễn Trãi ! “ức Trai tâm thượng quang Khuê tào”. chất ngọc ức Trai ta sáng mãi đến muôn đời.
Tóm lại, hai câu thơ của Phạm Hổ, bằng hình tượng đẹp, một lối nói độc đáo đã ca ngợi tài năng lỗi lạc của Nguyễn Trãi, đỉnh cao của trí tuệ về quân sự và văn hóa Đại Việt trong thời phong kiến. Tâm hồn của ức Trai (niềm vui lớn, nỗi đau dài) đã hòa nhịp với vận mệnh của non sông, của dân tộc.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247