Nằm ở phía Đông bán đảo Đông Dương, tiếp giáp Biển Đông với hơn 3.260 km bờ biển,… Việt Nam có vị trí địa, chính trị quan trọng, nên luôn thu hút sự quan tâm, nhòm ngó của các thế lực bên ngoài. Hơn thế nữa, nước ta lại nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, bên cạnh những thuận lợi cũng phải gồng mình đương đầu với sự tàn phá của nhiều loại hình thiên tai. Chính vì lẽ đó, ngay từ rất sớm, người Việt Nam luôn có ý thức cố kết cộng đồng, tạo sức mạnh toàn dân tộc để chiến thắng thiên tai, giặc giã, tạo nên truyền thống cực kỳ quý báu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong dòng chảy ấy, việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, chống lại cuộc xâm lược của thực dân Pháp vào nửa cuối thế kỷ XIX là một điển hình của lịch sử đất nước ta.
Thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam, ngày 01-9-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha với 17 chiến thuyền và gần 2.500 quân đã nổ súng tiến công vào Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Với một lực lượng mạnh, thực dân Pháp chủ trương và hy vọng đánh nhanh, thắng nhanh, buộc triều đình nhà Nguyễn phải đầu hàng vô điều kiện. Một lần nữa, dân tộc ta lại phải đương đầu với thế lực ngoại xâm hùng mạnh. Nhưng khác với các cuộc đấu tranh giữ nước trước đây, kẻ thù của nhân dân ta lần này tới từ phương Tây, có tiềm lực kinh tế, quân sự và phương tiện chiến tranh hơn ta gấp nhiều lần. Tuy vậy, dưới sự chỉ huy của danh tướng Nguyễn Tri Phương, quân và dân Quảng Nam đã làm tốt công tác chuẩn bị, tổ chức rào làng, đắp ụ, dùng sọt tre, thùng gỗ chứa đất đá lấp dòng sông Vĩnh Điện,... để chặn đường tiến công của địch. Với tinh thần chủ động, sáng tạo, đồng tâm, nhất trí, anh dũng chiến đấu, ta đã kìm chân địch suốt 5 tháng liền, khiến cho mưu đồ nhanh chóng đánh chiếm Đà Nẵng1, làm bàn đạp tiến vào kinh đô Huế của chúng bị phá sản. Trước tình hình đó, chúng đã chuyển hướng tiến công, đưa quân đánh chiếm Nam Bộ để từng bước đánh chiếm toàn bộ nước ta. Tại đây, tuy chiếm được thành Gia Định, nhưng thực dân Pháp không bình định được nông thôn, không thể khuất phục nhân dân Việt Nam, chúng luôn phải đối mặt với những “trung tâm kháng chiến ở khắp mọi nơi, chia nhỏ ra vô cùng, hầu như có bao nhiêu người An Nam thì có bấy nhiêu trung tâm kháng chiến”2. Bằng hình thức đấu tranh vũ trang là chủ yếu, với mọi thứ vũ khí có trong tay, nhân dân miền Nam đã đoàn kết, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, sáng tạo trong chiến đấu, quyết tử vì nền độc lập của dân tộc, đẩy quân Pháp vào thế bất lợi, khiến cho Giờ-nu-ly (Genouily) - viên chỉ huy trực tiếp cuộc xâm lược đã phải thốt lên “Cuộc chiến tranh ở nước này còn khó hơn cuộc chiến tranh chống vương quốc Trung Hoa”3. Chính tinh thần yêu nước, ý chí giữ vững độc lập, tự do là cội nguồn sức mạnh, làm thất bại âm mưu nhanh chóng xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp.
Trước sự xâm lăng của địch, triều đình nhà Nguyễn không những không dốc sức cùng toàn dân đánh giặc, mà luôn mang nặng tư tưởng cầu hòa, nhượng bộ, từng bước đầu hàng giặc, khiến cho nhân dân phải tự mình đảm đương sự nghiệp cứu nước. Vì thế, mặc dù ngày 25-8-1883, nhà Nguyễn ký Hiệp ước Hác-măng, thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, chấp nhận nền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, nhưng nhân dân trên cả nước, nhất là quân và dân Bắc Kỳ vẫn nêu cao quyết tâm chiến đấu đến cùng, khiến quân Pháp phải thiết quân luật ở cả Hà Nội và các vùng lân cận.
Ngày 06-6-1884, Hiệp ước Pa-tơ-nốt được ký, đánh dấu sự đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn cũng như sự sụp đổ của nhà nước phong kiến Việt Nam và nước ta trở thành thuộc địa của Pháp. Thế nhưng, bất chấp sức mạnh của địch và sự ươn hèn của triều đình Huế, hưởng ứng phong trào Cần Vương, nhân dân Việt Nam từ mọi miền Tổ quốc đã nhất tề đứng lên chống Pháp. Các văn thân, sĩ phu mặc dù xuất thân từ giai cấp phong kiến, nhưng không chấp nhận thái độ đầu hàng của nhà Nguyễn, họ quyết tâm đứng về phía nhân dân, cùng nhân dân chiến đấu và trở thành những người đại diện, lãnh đạo phong trào. Tin vào sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân để đánh giặc; tin tưởng vào sức mạnh chính nghĩa của cuộc đấu tranh giữ nước là cơ sở quan trọng để các thủ lĩnh phong trào Cần Vương tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài, có quy mô sâu rộng trong cả nước, với sự tham gia của “hàng triệu quần chúng nhân dân trên cơ sở thống nhất giữa lòng yêu nước, đã một lòng đứng dậy chống giặc cứu nước”4. Trong phong trào này, nhân tài, vật lực lúc bấy giờ đã huy động tới mức cao nhất cho cuộc chiến chống quân xâm lược. Thực tế đã chứng minh, trong hơn 10 năm (từ 1885 đến 1895), trên đất nước Việt Nam, bất cứ ở nơi nào có thực dân Pháp xâm lược thì ở đó đều có sự nổi dậy của quần chúng nhân dân. Nghĩa quân Cần Vương đã lập nên nhiều chiến công oanh liệt ở Hương Khê, Ba Đình, Hùng Lĩnh, Bãi Sậy, v.v.
Cùng với phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế, do thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám đứng đầu đã huy động được đông đảo lực lượng tham gia và luôn được nhân dân che chở, vì thế đã tạo nên cuộc khởi nghĩa lớn nhất, bền bỉ nhất trong phong trào đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Nhưng do thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn, phương pháp khoa học, nên Hoàng Hoa Thám không phát triển được lực lượng, mở rộng địa bàn hoạt động, tăng cường sức mạnh để giành thắng lợi to lớn hơn. Bởi vậy, phong trào chỉ dừng lại ở cuộc khởi nghĩa cục bộ, bị thực dân Pháp bao vây, tiêu diệt. Mặc dù có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần chiến đấu quật cường, nhưng các sĩ phu, văn thân đã không vượt qua được hạn chế về ý thức hệ phong kiến, không bắt kịp xu thế của thời đại, các cuộc khởi nghĩa không liên kết được với nhau để tạo sức mạnh to lớn của toàn dân tộc, thúc đẩy phong trào đi đến thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, ngay từ khi thực dân Pháp phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhân dân ta từ Nam chí Bắc với quyết tâm một lòng đánh Pháp, cứu Tổ quốc, đã đứng lên kháng chiến. Kể cả khi triều đình bạc nhược, bất lực, quay lưng với lợi ích của quốc gia, dân tộc thì phong trào yêu nước chống Pháp vẫn tiếp tục phát triển trên khắp mọi miền đất nước. Các phong trào đó huy động được đông đảo nhân dân tham gia, tạo sức mạnh to lớn, làm thất bại hoàn toàn âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp. Thậm chí, kẻ xâm lược phải mất gần 4 thập kỷ (1858 - 1896) mới hoàn thành việc đánh chiếm và bình định Việt Nam với nhiều tổn thất về người và của. Sức mạnh của dân tộc được bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, ý chí giữ vững độc lập, tự do là nguyên nhân quan trọng để làm nên thắng lợi trên, khiến cho kẻ xâm lược phải thốt lên: nếu chiến tranh cứ tiếp tục theo kiểu này sẽ kéo dài hàng trăm năm. Lời nguyền đó đã vắt qua hai thế kỷ, các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra khiến cho kế hoạch nhanh chóng bình định toàn cõi Việt Nam của thực dân Pháp thất bại. Tiếc rằng, triều đình nhà Nguyễn đã không nắm bắt cơ hội lãnh đạo, tập hợp nhân dân, huy động sức mạnh của toàn dân tộc để tiến hành cuộc kháng chiến vẻ vang, tô thắm truyền thống giữ nước của dân tộc. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX tuy đã tạo ra xung lực mạnh mẽ, nhưng đó cũng chỉ là những phong trào tự phát, thiếu sự tổ chức và lãnh đạo thống nhất nên chưa thúc đẩy, động viên và khai thác triệt để sức mạnh của dân tộc. Do vậy, dù đã viết nên những trang sử oanh liệt, nhưng không đi đến thành công, mà “chỉ có thể dấy lên rồi tắt, chính vì thiếu lực lượng lãnh đạo đủ năng lực”5. Đây chính là bài học sâu sắc về việc lãnh đạo, huy động sức mạnh toàn dân tộc cho sự nghiệp đấu tranh giữ nước.
Từ thất bại của các phong trào đấu tranh, nhà chí sĩ Phan Bội Châu nhận ra rằng: chừng nào toàn dân chưa thực sự đồng tâm, đoàn kết dưới một ngọn cờ thì chừng đó dân tộc ta chưa thể tự mình giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Lời kêu gọi lòng “ái quốc” và sự “đồng tâm” đã làm trỗi dậy tinh thần dân tộc, tạo nên phong trào đấu tranh mạnh mẽ. Song, vì thiếu một cơ sở lý luận, thiếu đường lối và biện pháp cụ thể, nên chưa thể tạo được khối đại đoàn kết, không thể phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, vì vậy phong trào do Ông khởi xướng cũng dẫn đến kết cục thất bại. Chỉ đến khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam - đội “Tiên phong, Thống nhất, Vững chắc” đã giải quyết được khủng hoảng đường lối cách mạng về giai cấp lãnh đạo, phát huy cao độ lòng yêu nước, huy động được sức mạnh toàn dân tộc, tiến hành cuộc đấu tranh giành chính quyền thành công vào năm 1945.
Thực tiễn lịch sử chứng minh, truyền thống yêu nước là sợi dây cốt lõi cố kết cộng đồng, tạo sức mạnh toàn dân tộc để chiến thắng các thế lực ngoại xâm. Tuy nhiên, để phát huy được sức mạnh này cần có đường lối lãnh đạo đúng đắn và tổ chức chỉ huy chặt chẽ, khoa học, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với xu thế thời đại. Trong giai đoạn hiện nay, để phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự trong sạch, vững mạnh, bài trừ tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong bộ máy chính quyền, nhằm củng cố sức mạnh Nhà nước, tăng cường niềm tin của nhân dân. Phải đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, thực sự của dân, do dân, vì dân, giữ vững mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà toàn dân tộc đã lựa chọn. Để làm được điều đó, Nhà nước ta cần tiến hành cải cách hành chính; hoàn thiện hành lang pháp lý; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ đức, đủ tài, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao tiềm lực kinh tế; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy mọi nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh đất nước. Đồng thời, có chiến lược tổng thể và các chính sách về việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực để tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ (300.000 -500.000 năm). Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước CN) đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước.
Dân tộc Việt Nam đã được hình thành và bước đầu phát triển trên vùng châu thổ sông Hồng và sông Mã phía Bắc của Việt Nam ngày nay. Con người từ các vùng đồi núi xuống vùng đồng bằng, từ đời này sang đời khác đã khai hoá đất để trồng trọt đã tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự dòng sông Hồng gây nhiều lũ lụt hàng năm. Quá trình lao động không ngừng để chế ngự nước - chống lũ, lụt, bão, hạn hán, xây dựng đê điều, đào kênh phục vụ cho việc trồng lúa - đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hoá làng xã.
Thánh Gióng
Vào thời đại Đồ đồng đã ra đời một nền văn minh thống nhất và độc đáo, đạt mức độ kỹ thuật và nghệ thuật cao - nền văn minh Đông Sơn rực rỡ. Các nghiên cứu nhân chủng, lịch sử và khảo cổ gần đây đã khẳng định sự tồn tại một thời kỳ các Vua Hùng khoảng 1.000 năm trước Công nguyên trên Vương quốc Văn Lang, sau đó đổi tên là Âu Lạc. Đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Âu Lạc đã bị xâm chiếm và sáp nhập vào đế chế phong kiến Hán hùng mạnh ở phương Bắc. Nhưng sự thống trị của phong kiến Trung Hoa kéo dài 10 thế kỷ đã không bẻ gẫy được sức kháng cự của dân tộc và không đồng hoá được nền văn hoá Việt Nam.
Vào thế kỷ thứ X sau Công nguyên đất nước đã giành được độc lập vững chắc và xây dựng một nhà nước độc lập mang tên Đại Việt. Đất nước đã trải qua nhiều triều đại vua chúa phong kiến mà quan trọng nhất là triều Lý (thế kỷ XI và XII), triều Trần (thế kỷ XIII và XIV), triều Lê (thế kỷ XV, XVI và XVII) với một nền hành chính tập quyền, một lực lượng quân đội mạnh, một nền kinh tế và văn hoá phát triển cao. Trong suốt thời kỳ này, Việt Nam phải liên tục đấu tranh chống lại các âm mưu xâm lược của các đế chế phong kiến Trung Hoa và Mông Cổ. Các cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ chống quân xâm lược Tống (thế kỷ XI), Nguyên (thế kỷ XIII), Minh (thế kỷ XV) đã giành những thắng lợi vang dội. Sau mỗi cuộc kháng chiến, Việt Nam trở nên mạnh hơn, các dân tộc đoàn kết hơn và đất nước bước vào một thời kỳ cường thịnh mới.
Nền văn hoá Đông Sơn được bổ sung bởi ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đã phát triển qua nhiều thế kỷ trong khuôn khổ một nhà nước độc lập. Phật giáo, Nho giáo, Khổng giáo thâm nhập vào Đại Việt mang theo nhiều yếu tố văn hoá quần chúng và nhiều hình thức đặc biệt. Tuy vậy, Việt Nam vẫn có ngôn ngữ riêng và một nền văn minh nông nghiệp phát triển khá cao.
Đến thế kỷ XVII và XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam suy yếu nghiêm trọng. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục diễn ra đã dẫn đến phong trào Tây Sơn (1771-1802). Tây Sơn đã tiêu diệt các chế độ vua chúa cát cứ, thống nhất đất nước, đánh đuổi quân xâm lược Thanh (Trung Quốc) đồng thời ban hành nhiều cải cách xã hội và văn hoá. Nhưng không lâu sau đó với sự giúp đỡ của ngoại bang, Nguyễn Ánh đã giành được quyền thống trị và lập nên triều đình nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Vào giữa thế kỷ XIX (1858), thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm chiếm Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn bất lực đã dần dần nhân nhượng quân xâm lược và từ năm 1884, Pháp thiết lập chế độ bảo hộ và thuộc địa trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu, các phong trào kháng chiến quần chúng dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước nổ ra ở khắp mọi nơi, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc (sau đó trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã hoạt động ở nước ngoài để tìm con đường cứu nước. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quần chúng nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật, thực hiện cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945.
"Không có gì quý hơn độc lập tự do"
Nước Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời lại phải đương đầu với các âm mưu xâm lược và can thiệp của Pháp và Mỹ, phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm sau đó. Trước hết, sự trở lại xâm lược của Pháp đã gây ra cuộc kháng chiến 9 năm (1945-1954) của Việt Nam, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ này mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động với Thủ đô là Hà Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà nằm dưới sự quản lý của chính quyền thân Pháp, rồi thân Mỹ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn sử dụng mọi sức mạnh để ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bỏ những người kháng chiến cũ, do vậy xuất hiện phong trào đấu tranh vì hoà bình, thống nhất đất nước. Chính quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản được nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng, đặc biệt từ ngày Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, ngày 20/12/1960.
Để duy trì chế độ Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự. Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 1960 Mỹ đã gửi nửa triệu quân Mỹ và đồng minh đến miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến, và từ 5/8/1964 bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn độc lập tự do", đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc phải ký Hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Mùa xuân năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày 2/7/1976, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và Bắc.
Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.
Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Từ năm 1975 - 1986, Việt Nam phải đối phó với vô vàn khó khăn. Những hậu quả và tệ nạn xã hội do chiến tranh để lại, dòng người tị nạn, chiến tranh ở biên giới Tây Nam chống diệt chủng Khme đỏ, chiến tranh ở biên giới phía Bắc, bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây, thêm vào đó thiên tai liên tiếp xảy ra... đã đặt Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt. Hơn nữa, những khó khăn càng trầm trọng do xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan, nóng vội và duy ý chí muốn xây dựng lại đất nước nhanh chóng mà không tính đến những điều kiện cụ thể. Vào đầu những năm 1980, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986.
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện nhằm vượt qua khó khăn, đi vào vào con đường phát triển và từng bước hội nhập khu vực và quốc tế. Tại Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai lầm khuyết điểm, đề ra đường lối Đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, đi đôi với việc tăng cường cơ sở pháp lý, đổi mới tổ chức Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam thực sự mở cửa, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dựa trên việc nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài sang cơ chế thị trường, tự chủ về tài chính nhằm cân bằng ngân sách nhà nước và hướng tới xuất khẩu. Trước năm 1989, hàng năm Việt Nam đều phải nhập khẩu lương thực, có năm trên 1 triệu tấn. Từ năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu 1-1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67,4%). Đời sống của nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi tình trạng bị bao vây, cô lập.
Tháng 6/1991, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lại quyết tâm tiếp tục chính sách Đổi mới với mục tiêu vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực đảm bảo công bằng xã hội, đưa đất nước cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Đại hội cũng đề ra chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ với mục tiêu Việt Nam "Muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."
Mặc dù bị tác động sâu sắc do việc Liên Xô, Đông Âu tan rã, các thị trường truyền thống bị đảo lộn; tiếp tục bị bao vây cấm vận và phải đối phó với các âm mưu hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, Việt Nam đã từng bước khắc phục khó khăn, trở ngại, tiếp tục giành nhiều thắng lợi to lớn. Từ năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng 6/1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ mức 67,1% (1991) xuống còn 12,7% (1995) và 4,5% (1996). Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt động văn hoá nghệ thuật thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ. Chính trị ổn định, độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của Việt Nam được giữ vững, quốc phòng an ninh được củng cố tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc Đổi mới. Hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở được củng cố, bộ máy nhà nước pháp quyền được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ của Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt đẹp.
Trong gần 1 thập kỷ qua, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội cho 10 năm đầu của TK 21, kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng và phát triển tương đối toàn diện. Trong 5 năm 2001 - 2005 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trưởng bình quân 7,5% và trong giai đoạn từ năm 2005-2008, GDP tăng trưởng bình quân 7,84%. Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả 3 lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy.
64 năm qua, kể từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu hết sức to lớn. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng đề ra và lãnh đạo đã đưa nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới. Từ những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX và nhất là từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã làm cho đất nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Việt Nam hiện có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị trí ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.Hiện nay Việt Nam đã thiết lập hơn 80 cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, có quan hệ ngoại giao với 176 quốc gia, quan hệ kinh tế thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó khoảng 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước ta./.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 7 - Năm thứ hai ở cấp trung học cơ sở, một cuồng quay mới lại đến vẫn bước tiếp trên đường đời học sinh. Học tập vẫn là nhiệm vụ chính!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247