Hứng trở về - Ngữ văn 10

Lý thuyết Bài tập

Tóm tắt bài

1.1. Tìm hiểu chung

a. Tác giả

  • Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng huyện Thiên Thi, tỉnh Hưng Yên.
  • Năm 16 tuổi đỗ Hoàng Giáp đời vua Trần Anh Tôn (cùng khoa với Mạc Ðỉnh Chi), làm quan đến chức Ðại Hành Khiển Tước Thân Quốc Công, thọ 82 tuổi
  • Khoảng năm 1314-1315 ông được cử đi sứ sang đáp lễ nhà Nguyễn
  • Ông làm quan đến chức Thượng thư còn đẻ lại tác phẩm Giới Hiên thi tập

b. Tác phẩm

  • Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác khi Nguyễn Trung Ngạn đang đí sứ ở Giang Nam (Trung Quốc)
  • Thể loại: Thất ngôn tuyệt cú đường luật
  • Chủ đề: Nỗi nhớ quê hương và khát vọng mau chóng trở về quê nhà

1.2. Đọc - hiểu văn bản

a. Hai câu đầu

Lão tang diệp lạc tàm phương tận,

Tảo đạo hoa hương giải chính phì

(Dâu già lá rụng tằm vừa chín,

Lúa sớm thơm bông cua béo ghê)

  • Tình yêu quê hương xứ sở được miêu tả qua những chi tiết: dâu tằm, hương thơm đồng lúa, cua cá trên đồng, bữa cơm quê dẻo thơm ngọt ngào. → những hình ảnh bình dị, quen thuộc.
  • Qua đó ta cảm nhận được sâu sắc nỗi nhớ quê hương cụ thể, da diết, chân thành trong tác giả.
  • Với những hình ảnh trên, tác giả đã góp phần khẳng định xu hướng bình dị, phá vỡ tính quy phạm, tính trang nhã của văn học trung đại.

b. Hai câu cuối

Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,

Giang Nam tuy lạc bất như quy

(Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt

Dầu vui đất khách chẳng bằng về)

 

  • Cách nói tế nhị ngầm so sánh 2 sự việc : đi sứ tuy vinh hạnh, sung sướng nhưng không bằng được ở nhà, ở nơi quê hương của mình.

→ Nhà thơ yêu thích được trở về với cuộc sống thanh đạm của quê nhà 
=> cả 2 câu đều mang lối so sánh nhưng ở 2 nghĩa khác nhau:

  • Câu 3 : cuộc sống tuy nghèo nàn nhưng vẫn vui & hạnh phúc.
  • Câu 4 : dù lãng du đất khách quê người rất vui nhưng ko sao bằng được niềm vui quê nhà

Ví dụ

Đề: Phân tích bài thơ Hứng trở về

Gợi ý làm bài

  • Các em có thể đọc tham khảo bài văn mẫu dưới đây:

Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) đỗ Hoàng giáp năm 16 tuổi, làm quan đến chức Thượng thư thời nhà Trần. Ông còn để lại Giới Hiên thi tập bằng chữ Hán. Bài thơ “Quy hứng” được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, sáng tác trong thời gian Nguyễn Trung Ngạn đi sứ ở Giang Nam, Trung Quốc.

Quy hứng thể hiện nỗi nhớ gia đình, quê hương với bao niềm tự hào của một người đang sống nơi đất khách quê người:

“Lão tang diệp lạc tàm phương tận,

Tảo đạo hoa hương giải chính phì.

Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,

Giang Nam tuy lạc, bất như quy”.   

Hai câu đầu nói lên bao nỗi nhớ của khách tha hương: Nhớ lá dâu già cuối vụ, vàng sẫm rụng khắp các nương bãi, nhớ những lứa tằm vừa chín vàng óng, vàng khươm trong nhà, ngoài sân, nhớ lúa sớm trổ trắng phau cánh đồng dâng hương ngào ngạt, nhớ vị béo đậm cua đồng. Thời gian mà nhà thơ nói lên nỗi nhớ đó là tháng tư hay tháng mười ? Có hai chi tiết: “Dâu già lá rụng”“cua béo” cho ta biết đó là vào dịp tháng mười khi gió heo may đã thổi về. Khí trời lành lạnh ấy càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê thêm phần thấm thía:

“Lão tang diệp lạc tàm phương tận,

Tảo đạo hoa hương giải chính phì”

(Dâu già lá rụng tằm vừa chín,

Lúa sớm bông thơm, cua béo ghê)

Các chi tiết nghệ thuật như dâu, tằm. hương lúa sớm, cua béo, đều là cảnh vật đồng quê, màu sắc, hương vị đậm đà của quê nhà thân yêu. Thật là bình dị, mộc mạc, dân dã. Khách li hương xứ sở mới có nỗi nhớ ấy. Cảnh vật ấy, hương vị ấy đã trở thành máu thịt, tâm hồn của nhà thơ. Nỗi nhớ của ông quan đi sứ trong thế kỉ 14 sao giống nỗi nhớ của anh trai cày ngày nay thế? Cũng là nỗi nhớ hương vị đậm đà quê hương:

“Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”    

                                                                                (Ca dao)

Và nỗi nhớ của người lính chiến thời đánh Pháp (1946 – 1954):

“Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng

Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc

Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng”

Quang Dũng (Mắt người Sơn Tây)

Qua đó, ta càng thấy rõ nỗi nhớ gia đình quê hương là nỗi nhớ đẹp, thể hiện tấm lòng thủy chung của con người Việt Nam chúng ta.

Trở lại hai câu cuối bài thơ, ba chữ “bất như quy” vang lên như một mệnh lệnh của tâm hồn:

“Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,

Giang Nam tuy lạc bất như quy”.

(Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt

Dẫu vui đất khách, chẳng bằng về)

Nhà thơ sử dụng nghệ thuật tương phản so sánh rất lí thú: “bần diệc hảo” (nghèo vẫn tốt), “gia bần” với “Giang Nam tuy lạc”. Cái “vui” quê người sao bằng cái “nghèo” của quê hương? Tình nghĩa của khách li hương đối với nơi chôn nhau cắt rốn thật vô cùng sâu nặng. Giang Nam là đất đô hội; quan sứ được đón tiếp linh đình, thiếu gì dê béo rượu ngon, thế mà đêm ngày lòng vẫn nhủ lòng: “bất như quy” – chẳng bằng về.

Cảm xúc “quy hứng” dào dạt vần thơ. Tình yêu quê hương đất nước và niềm tự hào dân tộc thấm vào từng câu chữ, từng vần thơ.

Quy hứng là một bài thơ hay và cảm động. Hay vì cái tình của khách ly hương. Hay vì lời thơ mộc mạc, giản dị mà ý vị thì sâu sắc đậm đà. Sau vần thơ là cả một tình quê vơi đầy, một tâm hồn rộng mở thủy chung.

3. Bài soạn Hứng trở về

Hứng trở về (Quy hứng) được Nguyễn Trung Ngạn sáng tác khi đi sứ nhà Nguyên. Bài thơ là những tình cảm nhớ quê và mong muốn được trở về ngay với cảnh nghèo mà chứa chan tình người. Để hiểu về bài thơ, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Hứng trở về.

4. Một số bài văn mẫu về bài thơ Hứng trở về

Nỗi nhớ quê nhà được gợi lên từ những hình ảnh dân dã: cây dâu già lá rụng, nong tằm vừa chín, lúa trổ bông với hương thơm ngào ngạt, cua đang lúc béo là những hình ảnh trong bài thơ Hứng trở về của Nguyễn Trung Ngạn. Để cảm nhận rõ hơn về bài thơ này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:

Copyright © 2021 HOCTAP247