1. Kết cấu đoạn trích
+ Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều;
+ Bốn câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân;
- Mười sáu câu còn lại: gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.
2. Bốn câu thơ gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân
- Câu mở đầu vừa giới thiệu vừa khái quát đặc điểm nhân vật: “Vân xem trang trọng khác vời”. Hai chữ “trang trọng” nói lên vẻ đẹp cao sang, quý phái của Vân, vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với thứ cao đẹp trên đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc.
- Vẫn là bút pháp nghệ thuật ước lệ với những hình tượng quen thuộc, nhưng khi tả Vân, ngòi bút của Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ lãể hơn lúc tả Kiều. Cụ thể trong thủ pháp liệt kê: khuôn mặt, đôi mày, nái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. Cụ thể trong việc sử dụng phụ ngữ để làm nổi bật vẻ đẹp riêng của đối tượng miêu tả. “đầy đặn”, “nở nang”, "đoan trang”. Những biện pháp nghệ thuật so sánh ẩn dụ đều nhằm thể hiện vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ: khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét, đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thoát ra từ hàm răng ngà ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết,...
3. Mười hai câu thơ gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều
- Cũng như lúc tả Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật "Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Nàng “sắc sảo” về trí tuệ và “mặn mà” về "tâm hồn.
- Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những hình tượng nghệ liuật ước lệ “thu thủy” (nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân), hoa, liễu. Nét vẽ của thi nhân thiên vẻ gợi, tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Điều đáng lưu ý là khi họa bức tranh chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt. Bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Cái “sắc sảo” của trí tuệ cái “mặn mà” của tâm hồn đều liên quan tới đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” - làn nước mùa thu dợn sóng gợi lên thật sống động 1 đẹp của đôi mắt trong sáng long lanh, linh hoạt,... Còn hình ảnh ước “nét xuân sơn” - nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi lông mày thanh thoát trên gương mặt trẻ trung.
4. Khi tả Thúy Vân, tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc mà không thể hiện cái tài, cái tình của nàng. Thế nhưng khi tả Kiều, nhà thơ tả sắc một phần còn dành đến hai phần để gợi tả tài năng. Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, gồm đủ cả cầm (đàn), 1 (cờ), thi (thơ), họa (vẽ). Đặc biệt tài đàn của nàng đã là sở trường năng khiếu đặc biệt (nghề riêng), vượt lên trên mọi người (ăn đứt). Cực tả cái tài của Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng.
Cung đàn bạc mệnh mà Kiều tự sáng tác chính là ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm.
Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của cả sắc - tài - tình. Tác giả dù: câu thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để cực tả giai nhân.
5. Chân dung Thúy Kiều là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghét ghen, các vẻ đẹp khác phải đố kị:
- “hoa ghen”, “liễu hờn” - nên sô' phận nàng sẽ éo le, đau khổ.
- Chân dung Thúy Vân cũng là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với chung quanh “mây thua “tuyết nhường” nên nàng sẽ có cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
6. Trong hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều, rõ ràng bức chân dung Thúy Kiều nổi bật hơn, bởi:
- Nguyễn Du chỉ dành bốn câu thơ để gợi tả Thúy Vân, trong khi ( dành tới 12 câu thơ để cực tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.
- Vẻ đẹp của Vân chủ yếu là ngoại hình còn vẻ đẹp của Kiều là nhan sắc, tài năng, tâm hồn.
- Tác giả tả Thúy Vân trước để làm nổi bật lên chân dung Thúy Kiều.
Copyright © 2021 HOCTAP247