1. Lưu Quang Vũ (1948-1988), sinh tại Phú Thọ, quê gốc Đà Nẵng, vừa là nhà thơ vừa là nhà viết kịch nổi tiếng. Ngòi bút viết kịch Lưu Quang Vũ rất nhạy bén, sắc sảo. Các tác phẩm của ông luôn đề cập đến những vấn đề có tính thời sự nóng hổi trong cuộc sống đương thời, đáp ứng được những đòi hỏi của đông đảo người xem trong thời kỳ xã hội đang có những biến chuyển mạnh mẽ.
Thuở nhỏ Lưu Quang Vũ sống cùng gia đình ở chiến khu Việt Bắc. Hòa bình lập lại, về Hà Nội và suốt thời gian đi học sống ở đó. Năm 1965 xung phong vào bộ đội, thuộc quân chủng Phòng không Không quân. Cuối năm 1970 xuất ngũ. Những năm sau đó làm nhiều nghề khác nhau: vẽ tranh, viết báo, làm thơ… Từ tháng 8 năm 1979 cho đến khi mất, làm phóng viên tạp chí Sân khấu.
Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ tài năng về nhiều mặt: thơ, truyện, phê bình sân khấu. Lĩnh vực nào cũng có những thành công nhất định. Tài năng ấy có được trước hết là do anh sinh ra và lớn trên trong một gia đình có truyền thống say mê văn học nghệ thuật, sau đó là ý thức lao động sáng tạo và tư chất văn chương của một nghệ sĩ. Từ năm 80 đến cuối đời, tài năng thơ và vốn hiểu biết về sân khấu của Lưu Quang Vũ đã kết tinh trong hơn 50 vở kịch. Lưu Quang Vũ được xem như là tác giả tiêu biểu của kịch trường Việt Nam thời kỳ những năm tám mươi của thế kỷ XX. Có những vở gây xôn xao dư luận như: Hồn Trương Ba da hàng thịt (1981), Nàng Si-ta (1982), Tôi và chúng ta (1984), Nguồn sáng trong đời (1984),Lời nói dối cuối cùng (1985)… Sự xuất hiện của Lưu Quang Vũ đã làm lu mờ đi, thậm chí vơi hẳn đi cả một thể hệ tác giả từng ngự trị sân khấu suốt một thời” (1). Bối cảnh ra đời kịch của Lưu Quang Vũ là vào những năm 80. Đây là giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh và cơ chế quan liêu bao cấp lỗi thời đã trở thành lực cản cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cuộc đấu tranh bây giờ không chỉ là giản đơn ở hai tuyến địch ta, mà là một cuộc đấu tranh để khẳng định cái mới, cái phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Việc xây dựng hình tượng con người mới trong văn học nói chung, trong kịch nói riêng cần phải thay đổi phù hợp với những chuyển động mạnh mẽ của đời sống.
2. Tác phẩm đã xuất bản: Hương Cây – Bếp lửa (thơ, in chung, 1968); Diễn viên và sân khấu (tiểu luận, in chung); Mùa hè đang đến (truyện, 1983); Người kép đóng hổ (truyện, 1984); Mây trắng của đời tôi (thơ, 1989); Bầy ong trong đêm sâu (thơ, 1993); Thơ tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ (1994); Lưu Quang Vũ đã viết khoảng hơn 50 kịch bản sân khấu đã được dàn dựng và xuất bản: Sống mãi tuổi 17 (1979); Hồn Trương Ba da hàng thịt (1984); Người tốt nhà số 5 (1981); Khoảnh khắc và vô tận (1986); Bệnh sĩ (1988); Lời thế thứ 9 (1988); Điều không thể mất (1988)…
Các giải thưởng:
– Bảy Huy chương vàng trong các kỳ hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc
– Hai lần được
thưởng của Hội văn nghệ Hà Nội
– Hai lần được
Copyright © 2021 HOCTAP247