Phân tích bài “Thề non nước” của Tản Đà

Lý thuyết Bài tập

Tóm tắt bài

Phân tích bài “Thề non nước” của Tản Đà

Ghép núi Tản, sông Đà làm bút danh để trước tác cả một đời trên cõi trần ai này, dường như trong Tản Đà đã có Thề non nước. Ông đã tự tìm đến cái bút hiệu thuộc về non nước này, hay nước non đã tự tìm đến thi sĩ như một hẹn hò, một duyên nghiệp? Thật khó mà nói cho cùng. Chỉ biết rằng nước - non đã thực sự là một ám ảnh lớn trong suốt cả đời văn của thi sĩ. Bất cứ người đọc Tản Đà cũng có thể thấy hình tượng non - nước trở đi trở lại trong văn chương của thi sĩ như một mạch nguồn cuốn tuôn chảy khi thì chứa chan ào ạt, khi thì âm thầm len lấn vào biết bao thi đề, thi tứ, thi cảm của thi nhân. Mạch nguồn ấy cũng đã đem về cho Tản Đà nhiều áng thi ca hào hoa phong nhã, thanh tú.

Thực ra, ở thời Tản Đà, non nước cũng là một hình tượng, một biểu tượng có một sức ám ảnh đặc biệt đối với văn chương nước nhà, nhất là thơ ca. Ấy là thời mà Chiêu hồn nước đã trở thành một nguồn cảm hứng da diết đối với mọi cây bút có tâm huyết với non sông. Người thì nói lối hô hào thống thiết, kẻ thì dùng lối chập chờn bóng gió xa xôi. Bởi bấy giờ giang sơn Tổ quốc ta đang ở trong cảnh ngộ mất chủ quyền. Tuy vậy, cũng ít người có được tiếng nói văn chương như Tản Đà.

Có trong mình cả một tâm hồn dào dạt phong tình, cả một tấm lòng tha thiết với đất nước, tiếng thơ Tản Đà như một bản hợp ca của cả hai bè ấy. Nó cứ dập dìu, có lúc đuổi nhau, quyện lấy nhau, có lúc chuyển hóa sang nhau, và thường khi hòa nhập hẳn vào nhau. Và thật kỳ lạ, điểm hẹn thề của cả hai tiếng lòng ấy đã đặt vào hình tượng non - nước. Chẳng phải thế sao? Non - nước vừa là một hình tượng của lòng yêu nước, vừa là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Cho nên khi hai tiếng non - nước cất lên từ hồn thơ Tản Đà, người ta thấy đó là lời đồng vọng của những gì thẳm sâu trong tâm thức của thi nhân.

Thế đấy, Thề non nước đâu chỉ là sản phẩm từ cuộc tao ngộ của một đôi trai gái phong tình trong truyện ngắn cùng tên. Thề non nước trước hết là đứa con tinh thần ra đời từ cuộc giao duyên tiền định kia trong hồn thơ của thi sĩ. Việc sinh thành ấy dường như là tất yếu!

Thề non nước, chào đời tới hai lần. Lần đầu là một bài thơ lẻ, lần thứ hai lồng ghép với một truyện ngắn. Riêng việc đến với cuộc đời một cách đặc biệt như thế, đủ thấy thề non nước có một ý nghĩa thế nào đối với tư tưởng Tản Đà. Đúng là bài thơ có tới ba lớp nghĩa. Ba lớp nghĩa ấy giao nhau, nhưng phần chính là chồng lên nhau. Ba lớp ý tưởng tương ứng với ba lớp ý nghĩa của hình tượng non nước. Nếu không có truyện ngắn Thề non nước kể lại tình tiết người khách làng chơi và cô đào Vân Anh cùng vịnh một bức tranh sơn thủy có tên là Thề non nước, thì người đọc thơ vẫn cứ thấy lớp nghĩa thứ nhất của bài thơ là tái hiện vẻ đẹp thơ ca của một cảnh thiên nhiên sơn thủy. Có thể thấy trong thơ những nét vẽ theo lối tả thực khá lộng lẫy:

Trời tây ngả bóng tà dương,
Cùng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.


Là một thi sĩ từng được đào luyện trong nền giáo dục theo loại hình trung đại, từng theo đòi văn chương cử tử, Tản Đà chưa thoát hẳn hệ thống thi pháp trung dại. Câu thơ vẽ hình ảnh núi non này vẫn dùng những vật liệu quen thuộc của trung đại với những “bóng tà dương”, “vẻ ngọc nét vàng”, với lối ước lệ, cách điệu cổ điển. Đây là những thứ mà thi sĩ ngỡ chỉ là y phục. Tản Đà muốn trút bỏ, nhưng nó thật là một thứ vòng kim cô siết chặt lên những tung phá tự do của thơ Tản Đà khiến cho sự bức phá của hồn thơ bị ách tắc bởi thi pháp. Và có lẽ đó cũng là điều dĩ nhiên. Thi pháp trung đại vẫn cố giành lấy một nửa Tản Đà, không cho ông vượt thoát để sang hẳn bờ hiện đại, để ông chỉ là một cây cầu nối giữa đôi bờ mà thôi.

Nhưng lớp nghĩa tả thực chỉ là xuất phát điểm. Nó đem lại cho bài thơ những hình thể sống động ít nhiều mang tính trực quan, làm cho người đọc có thể có được những rung động thẩm mĩ trực tiếp. Trước mắt người đọc hiện lên một cảnh trí cụ thể có không gian thực và thời gian thực cảm nhận được bằng giác quan. Dường như một bài thơ mà thiếu đi điều đó thì dù nó có những ẩn ý sâu xa đến mấy, tầm vóc tư tưởng cao siêu đến đâu cũng sẽ rơi vào trừu tượng. Mà trừu tượng thuần túy là chỗ chết của thơ. Vì vậy, hình tượng trực quan làm nên hình hài của thơ, làm tiền đề không thể thiếu cho sự thăng hoa của tư tưởng thơ.

Cốt lõi của cấu trúc bài thơ vẫn là cuộc đối thoại giữa non và nước. Cả non và nước đều “tranh thủ” phô diễn tâm tình cho nên ý nghĩa tả thực bị mờ đi và các lớp nghĩa bóng có xu hướng trôi lên bình diện thứ nhất. Có nghĩa là ở đây cảnh non nước bị mờ đi trước tình non nước. Vì thế bài thơ đã đi sâu vào địa hạt của nghĩa bóng ngay từ đầu, và nhất là khi non và nước lại biết cất lên những tiếng nói trực tiếp bày tỏ.

Vậy là có một đôi trai gái “náu mình” trong non và nước. Cái tình huống nảy sinh cuộc đối thoại này là cảnh dâu bể. Bức tranh sơn thủy, nhưng chỉ có sơn không có thủy. Nói đúng hơn, Sơn thì vẫn còn đó, nhưng thủy đã ra đi - dưới chân núi có rặng dâu xanh tốt, qua đó người đọc có thể hình dung trước kia là biển xanh (nước) theo luật “thương hải biến vi tang điền”. Thành thử bức tranh không vẽ nước mà vẫn có nước vậy. Theo cái lôgic nội tại của hình tượng, cảnh đổi thay dâu bể trong thiên nhiên đã trở thành cảnh biệt li lưu lạc của tình yêu đôi lứa. Đây là chỗ để Tản Đà bắc nhịp cầu nối các lớp nghĩa với nhau. Thì hiện tại là dâu bể. Cả thiên nhiên, cả lứa đôi, cả non nước đều trong cơn dâu bể. Hiện tại, thực tại dâu bể kia đã chia lìa tất cả.

Và núi đã thành núi tương tư. Dựa vào những sự vật được mô tả trong bức tranh, Tản Đà đã không dừng lại ở việc vịnh lại bức tranh một cách máy móc, mà tái tạo thành hình tượng núi - tương - tư trong dáng vẻ một nàng cô phụ:

Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.


Mỏi mòn trong tương tư, con người ta có thể bị hao gầy thân xác, nên chính xác hao gầy về thân xác là một bằng chứng sống của nỗi tương tư. Ngày xưa Trương Cửu Linh đã viết:

Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm

(Lời dịch của Ngô Tất Tố)

Ở đây cũng vậy, núi tương tư được mô tả như một hình ảnh mà nét nào cũng hư hao, gầy mòn, tàn tạ đi. Nhớ thương đã làm nhan sắc phôi pha theo ngày tháng. Tuy hao gầy nhưng non vẫn không hề đổi thay, lòng vẫn chung tình, son sắt:

Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa.


Có thể nói toàn bộ phần ấy là lời của non. Không phải non đang tự họa về cái dáng vóc hình hài của mình mà đang tự tình, đạng phô diễn cái tình nhớ nhung, chung thủy của mình.

Lời của nước cũng rất mực thủy chung. Mỗi lời là một sự khẳng định đinh ninh, trước sau như một. Mỗi lời của nước đều dựa vào quy luật vĩnh diễn của tự nhiên, đều tạc vào sông núi.

Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước chưa nguôi lời thề.


Hai chữ non nước bắt đầu từ câu đầu tiên của bài thơ cứ lúc chia tách thành non, nước có lúc nhập vào nhau. Nhưng chưa lúc nào có được sự quấn quít, xoắn xuýt, hạnh phúc tràn ngập như ở câu cuối cùng này. Chữ nghĩa trong bàn tay Tản Đà đâu phải là những kết hợp vô tình?

Cả non và nước đều khẳng định đinh ninh: sông cạn đá mòn, vật đổi sao dời... nhưng thề xưa thì quyết không mảy may di dịch. Trước cảnh thế gian biến cải, một lời thề đinh ninh ấy có thể làm niềm tin duy nhất của nước non. Trong cái biến nhất thời khẳng định cái bất biến đời đời, chẳng phải đó chính là tư tưởng cốt lõi của Thề non nước chăng?

Lớp nghĩa thứ ba được suy ra từ đó là vấn đề chủ quyền của đất nước. Có thể nhất thời đất nước bị mất chủ quyền. Nhưng chủ quyền rồi sẽ trở về, đó là niềm tin đinh ninh, một chân lí vĩnh viễn. Hiện tại là ngắn ngủi, và sẽ kết thúc. Nước sẽ trở về trong “Nghìn năm giao ước kết đôi”, không chỉ như thực hiện một lời thề, mà nước sẽ trở về như một quy luật, một lẽ sống của nước - non.

Trong hoàn cảnh đương thời, viết về đất nước, vẫn sao vẫn cứ là một việc mạo hiểm. Tản Đà đã phải dùng đến một chuyện phong tình để khoát lên cái tư tưởng sâu xa của bài thơ. Điều lí thú là cả phong tình và yêu nước đều là những luồng tình cảm dồi dào trong hồn thơ Tản Đà, nên nó mới quyện lại thành một bài thơ nhuần nhuyễn như vậy.

Có thể thấy non nước là một biểu tượng được dùng phổ biến trong thơ ca thời này. Về sau, chúng ta thấy viết về Tổ quốc, thơ ca hay dùng trực tiếp biểu tượng đất nước. Phải chăng cảm xúc thiên nhiên ở cả hai biểu tượng thì như nhau, còn cảm xúc phong tình trong non nước đậm hơn, trong khi đó cảm xúc chính trị trong đất nước trực tiếp hơn? Dẫu sao trong thơ ca (ở cấp độ hình tượng bao trùm tổng quát chứ không nói cấp độ từ) từ non nước đến đất nước, dường như vẫn là hai chặng đường!

Copyright © 2021 HOCTAP247