a) có DN = $\frac{1}{2}$ DF
và DM = $\frac{1}{2}$ DE
mà tam giác DEF cân tại D
⇒ DE = DF
⇒ DN = DM
Xét Δ DNE và Δ DMF có:
DE = DF
góc D chung
DN =DM
⇒ Δ DNE = Δ DMF (cạnh góc cạnh)
⇒ EN = FM
b) có∠ EMF + ∠ FMD = ∠ FNE + ∠END = 180$^{o}$
mà ∠ FMD = ∠ END (do Δ DNE = Δ DMF)
Xét Δ EMF và Δ FNE có:
∠FMD = ∠ END
EM = NF
∠ MEF = ∠ NFE (do Δ DEF cân tại D)
⇒ Δ EMF = Δ FNE (góc cạnh góc)
⇒ ∠ KFE = ∠ KEF
⇒ tam giác cân tại K
c)
ta có:
∠ DEK + ∠ KEF = ∠ DEF
mà ∠ DEF = ∠ DFE và ∠ KEF = ∠ KFE
⇒ ∠ DEK = ∠ DFK
xét ΔDKE và ΔDKF có:
DE = DF (ΔDEF cân tại D)
∠ DEK = ∠DFK
KE = KF (ΔKEF cân tại K)
⇒ ΔDKE = ΔDKF (cạnh góc cạnh)
⇒ góc EDK = góc FDK
⇒ DK là phân giác của góc EDF
Đáp án:
a) EN=FM
b) ΔKEF cân
c) DK là phân giác của $\widehat{EDF}$
Giải thích các bước giải:
a) $\Delta DEF$ cân tại D (gt)
$\Rightarrow \left\{\begin{matrix}
DE=DF (định nghĩa) (1)\\
\widehat{DEF}=\widehat{DFE} (tính chất)
\end{matrix}\right.$
Lại có:
$\left\{\begin{matrix}
M là trung điểm của DE\Rightarrow MD=ME=\frac{DE}{2}(2)\\
N là trung điểm của FD\Rightarrow DN=NF=\frac{DF}{2}(3)
\end{matrix}\right.$
Từ (1), (2) và (3)$\Rightarrow DM=ME=DN=NF$
Xét $\Delta DEN$ và $\Delta DFM$ có:
DE=DF
$\widehat{D}$ chung
DN=DM
$\Rightarrow \Delta DEN=\Delta DFM$ (c.g.c) (*)
$\Rightarrow EN=FM$ (hai cạnh tương ứng)
b) Từ (*)$\Rightarrow \widehat{DEN}=\widehat{DFM}$ (hai góc tương ứng)
mà $\widehat{DEF}=\widehat{DFE}$
$\Rightarrow \widehat{DEF}-\widehat{DEN}=\widehat{DFE}-\widehat{DFM}$
$\Leftrightarrow \widehat{NEF}=\widehat{NFE}\Leftrightarrow \widehat{KEF}=\widehat{KFE}$
$\Rightarrow \Delta KEF$ cân tại K (**)
c) Từ (**)$\Rightarrow KE=KF$ (định nghĩa)
Xét $\Delta DEK$ và $\Delta DFK$ có:
DE=DF
DK chung
KE=KF
$\Rightarrow \Delta DEK=\Delta DFK$ (c.c.c)
$\Rightarrow \widehat{EDK}=\widehat{FDK}$ (hai góc tương ứng)
$\Rightarrow DK$ là phân giác của $\widehat{EDF}$
Toán học là môn khoa học nghiên cứu về các số, cấu trúc, không gian và các phép biến đổi. Nói một cách khác, người ta cho rằng đó là môn học về "hình và số". Theo quan điểm chính thống neonics, nó là môn học nghiên cứu về các cấu trúc trừu tượng định nghĩa từ các tiên đề, bằng cách sử dụng luận lý học (lôgic) và ký hiệu toán học. Các quan điểm khác của nó được miêu tả trong triết học toán. Do khả năng ứng dụng rộng rãi trong nhiều khoa học, toán học được mệnh danh là "ngôn ngữ của vũ trụ".
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 7 - Năm thứ hai ở cấp trung học cơ sở, một cuồng quay mới lại đến vẫn bước tiếp trên đường đời học sinh. Học tập vẫn là nhiệm vụ chính!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247