Bài làm:
Viết về cuộc đời và số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa là đề tài, nguồn cảm hứng sáng tạo được rất nhiều nhà văn, nhà thơ khai thác thành công với rất nhiều tác phẩm độc đáo, đặc sắc. Trong những tác phẩm đặc sắc đó, tác phẩm truyện Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là tác phẩm để lại trong em ấn tượng sâu sắc.
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là một đất nước Á Đông với nền văn hoá, phong tục tập quán tốt đẹp, đặc biệt là tình yêu thương con người. Nhưng bên cạnh đó còn có rất nhiều hủ tục lạc hậu, những hủ tục này nhiều khi ảnh hưởng, tác động tiêu cực tới cuộc đời, số phận của rất nhiều con người, đặc biệt là những người phụ nữ trong xã hội xưa. Cuộc đời của họ là đầy rẫy những éo le, ngang trái, bất hạnh, oan khuất, cả những cái chết thương tâm mà chính hủ tục phong kiến đã đày đoạ họ, đẩy họ vào thảm cảnh bị kịch, bế tắc không lối thoát.
Nhân vật Vũ Nương, một nhân vật quen thuộc trong văn học trung đại Việt Nam đã khiến ta xót xa, thương cảm cho người con gái đẹp người đẹp nết ấy đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi, mất mát. Lẽ ra với dung mạo xinh đẹp, tính tình thùy mị nết na ấy thì Vũ Nương phải có một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc. Nhưng dòng xoáy cuộc đời với đầy rẫy biến động xô đẩy đã khiến cuộc sống Vũ Nương từ khi bước vào hôn nhân không còn êm đẹp, thoải mái bởi một người chồng thất học, hồ đồ với tính đa nghi, gia trưởng ngày từ đầu đã thiếu lòng tin, không tin tưởng vợ mình nên cuộc sống hàng ngày luôn phòng ngừa quá mức, cuộc cuộc sống gia đình như vậy thì tìm đâu thấy niềm hạnh phúc dù Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, luôn tìm cách vun vén, xây dựng tổ ấm gia đình và chưa từng một lần để xảy ra chuyện thất hoà. Cứ tưởng cuộc sống cứ êm đêm trôi quá như vậy thì biến cố ập đến đã đẩy giá đình Vũ Nương vào những ngõ rẽ. Chiến tranh xảy ra, Trương Sinh vốn con nhà hào phú nhưng lại là kẻ thất học nên có tên trong sổ đăng lính ngay từ buổi đầu. Ngày Trương Sinh lên đường cả mẹ và vợ đều dành hết tất cả tình yêu thương cho chàng, quan tâm, lo lắng và khuyên nhủ chàng một cách chân thành, đặc biệt Vũ Nương hết lòng dặn dò chồng với mong ước nhỏ nhoi, không mong đeo ấn "phòng hầu" mà chỉ mong chồng bình an trở về. Nàng còn thể hiện sự hiểu biết về tình hình thời thuộc, lo lắng Trương Sinh phải trải qua những khó khăn, gian khổ nơi chiến trường. Thiết nghĩ một người vợ như vậy thật đáng trân trọng.
Không chỉ là một người vợ yêu chồng thủy chung son sắc, Vũ Nương còn là một người mẹ tuyệt vời hết mực yêu thương con, một mình chăm con vừa đảm nhận vai trò một người cha, người thầy nuôi dưỡng con, không muốn con phải chịu thiếu thốn tình cha nên Vũ Nương đã bù đắp cho con bằng cách ngày ngày trỏ vào bóng mình trên vách để dỗ con, bảo với con đó là cha bé để bé cảm thấy gần gũi với cha, để rồi chính cái bóng là nguyên nhân dẫn đến những biến cố sau này.
Vũ Nương còn là một nàng dâu hiếu thảo, nàng đã dùng hết những lời lẽ ân cần để khuyên lơn khi mẹ chồng vì nhớ con mà héo hon sầu não. Không những thế, khi bà cụ ốm đau Vũ Nương đã chăm lo thuốc thang ân cần chu đáo khiến cho bà cụ vô cùng cảm động, từng lời nói của bà khi căn dặn Vũ Nương đã ghi nhận, thể hiện rõ tình cảm, sự quan tâm của Vũ Nương dành cho bà. Một thời gian sau đó bà cụ qua đời, Vũ Nương không hề phân biệt mà lo ma chay tế lễ như cha mẹ đẻ của mình.
Ngày gia đình Vũ Nương được đoàn tụ, cứ ngỡ với tất cả những gì Vũ Nương đã làm thì ngày Trương Sinh trở về sẽ là ngày hạnh phúc nhất đời nàng nhưng sự thật thì hoàn toàn nghiệt ngã, trái ngược với khát khao mong đợi của Vũ Nương, ngày Trương Sinh trở về là bắt đầu của chuỗi bị kịch đầy đau khổ sau này. Tất cả đều xuất phát từ tính đa nghi tới mức hồ đồ của Trương Sinh, chỉ vì tin lời con trẻ khi bế con đi thăm mộ mẹ mà cũng chẳng thèm kiểm chứng, khi được hỏi thông tin từ đâu thì chẳng nói ra, sự ghen tuông đã làm Trương Sinh trở nên mù quáng để rồi qua lời con trẻ chỉ từ hình ảnh chiếc bóng mà hàng đêm Vũ Nương vỗ về con đã trở thành "chiếc bóng oan khiên" đổ xuống cuộc đời nàng. Mặc họ hàng làng xóm bênh vực bảo vệ, Trương Sinh vẫn một mực nghi oan cho vợ, la mắng, chửi bới, đánh đập, đuổi đi. Nhân phẩm, danh dự, tiết hạnh bị chà đạp, lăng mạ khiến cho Vũ Nương rơi vào bế tắc tuyệt vọng không lối thoát. Đã không được cảm thông chia sẻ lại còn bị đẩy vào bước đường cùng, tận cùng của oan khuất đau đớn, tủi nhục, không còn cách nào khác để minh oan khiến Vũ Nương buộc phải tìm đến cái chết, tự kết liễu cuộc đời mình trong oan khuất tủi nhục để tự minh oan, chúng minh cho tiết hạnh phẩm giá của mình. Cái chết của nàng là tận cùng của bi kịch, là hồi chuông cảnh tỉnh lên án tố cáo chế độ phong kiến với những hủ tục lạc hậu, trọng nam khinh nữ, những lễ giáo phong kiến đã chà đạp lên cuộc đời và số phận những người phụ nữ, họ không được bênh vực, bảo vệ cũng chẳng có quyền hành gì. Họ là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, lễ giáo phong kiến, cuộc đời họ là những bi kịch, tổn thương mà không được bênh vực, bảo vệ.
Bằng ngòi bút tài tình của một bậc thầy trong việc xây dựng tình huống truyện kịch tính từ một cốt truyện đơn giản bằng tấm lòng yêu thương, trân trọng của một bậc Nho gia, Nguyễn Dữ đã khắc họa chân thực xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, mục ruỗng đồng thời khắc họa chân dung, cuộc đời, số phận của người phụ nữ tài hoa bạc mệnh chịu nhiều oan khuất bằng tấm lòng yêu thương, trân trọng, cảm phục. Là tiếng nói lên án tố cáo xã hội, bênh vực bảo vệ phụ nữ, là tư tưởng tiến bộ của một bậc Nho gia có tấm lòng nhân ái hậu, yêu thương con người.
Ngày nay khi quyền bình đẳng được tôn trọng, người phụ nữ được tôn trọng, được xã hội ghi nhận, chính họ đã có rất nhiều đóng góp cho đất nước, nhiều người từng giữ trọng trách cao trong Đảng và chính quyền, đó chính là sự ưu việt, sự tin yêu dành cho người phụ nữ trong xã hội ngày nay.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong “Truyền kỳ mạn lục” - một tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam. Truyện phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội, đó là thân phận của người nông dân nói chung và người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến. Thế lực bạo tàn và lễ giáo phong kiện khắt khe đã chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ, mặc dù họ là những người phụ nữ đáng trân trọng trong gia đình và xã hội.
Câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của Vũ Nương - một người, con gái nết na, thùy mị. Chồng nàng là Trương Sinh, con nhà giàu có nhưng ít học, vốn tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Trương Sinh lấy Vũ Nương không phải vì tình yêu mà chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi không có sự chan hòa, bình đẳng trong cuộc hôn nhân đó. Mầm mống bi kịch của cuộc đời Vũ Nương bắt đầu từ đây.
Mặc dù chồng là người lạnh lùng, khô khan, ích kỷ nhưng Vũ Nương luôn đảm đang, tháo vát, thủy chung. Nàng khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm ấm thuận hòa nên luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói chừng mực. Khi chồng đi lính, Vũ Nương đã tiễn chồng bằng những lời mặn nồng, tha thiết: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng”. Thật xúc động với tình cảm của người vợ hiền trước lúc chồng đi xa. Tình cảm ấy đã làm mọi người rơi lệ.
Không chỉ là người vợ hiền, Vũ Nương còn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng chăm sóc chu đáo mẹ chồng, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ đẻ của nàng vậy. Chồng đi lính khi nàng có mang, biết bao khổ cực chỉ một thân một mình gánh chịu. Rồi nàng sinh con, một mình nuôi dạy con và chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng mất, nàng vô cùng thương xót, nàng lo ma chay, tế lễ hết sức chu đáo.
Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà chỉ vì tin lời con trẻ mà nghi vợ hư hỏng nên chửi mắng vợ thậm tệ, mặc cho lời phân trần của Vũ Nương, mặc cho lời biện bạch của họ hàng làng xóm, Trương Sinh vẫn hồ đồ đánh đuổi Vũ Nương. Đau đớn, tủi nhục, Vũ Nương phải tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang.
Câu chuyện đã thể hiện nỗi oan khúc tột cùng của Vũ Nương, nỗi oan ấy đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong kiến vùi dập con người, nhất là người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày đến bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đoán, sống thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết bi thương đầy oan trái cho Vũ Nương. Thân phận của Vũ Nương thật đáng thương và phẩm chất của nàng cũng thật đáng khâm phục. Khi còn sống nàng là người vợ hiền dâu thảo, sống có nghĩa tình.
Khi chết, tuy được các nàng tiên cứu sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy, nhưng lúc nào nàng cũng nhớ đến quê hương bản quán của mình. Là người nặng tình nghĩa, nàng đã ứa nước mắt khi nghe người cùng làng gợi nhắc đến quê hương, nhắc đến chồng con của mình. Thế nhưng, Vũ Nương vẫn còn đó nỗi đau oan khúc, nàng muốn phục hồi danh dự: Nàng không trở về trần gian mặc dù Trương Sinh đã lập đàn giải oan và đã ân hận với việc làm nông nổi của mình. Nàng không trở về trần gian đâu chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi - người đã cứu nàng, mà điều chủ yếu ở đây là nàng chẳng còn gì để về. Đàn giải oan chỉ là việc an ủi cho người bạc mệnh chứ không thể làm sống lại tình xưa nghĩa cũ. Nỗi oan khuất được giải nhưng hạnh phúc đâu thể tìm lại được. Sự dứt áo ra đi của nàng là thái độ phủ định trần gian với cái xã hội bất công đương thời. Đây cũng là thái độ đấu tranh đòi công lý của người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn. Dù cái chết là tấn bi kịch của người phụ nữ, nhưng họ thức tỉnh được tầng lớp phụ quyền, phong kiến. Sự vĩnh viễn chọn cái chết mà không trở lại trần thế của Vũ Nương đã làm cho Trương Sinh phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình. Trương Sinh biết lỗi thì đã quá muộn màng.
Qua câu chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố cáo xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ, tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm vợ xa chồng, cha xa con, gia đình tan vỡ. Nỗi đau của Vũ Nương cũng là nỗi đau của biết bao người phụ nữ dưới chế độ phong kiến như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và nhiều phụ nữ khác nữa. Phải chăng người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam luôn bị chà đạp dù họ có tài năng và phẩm chất cao đẹp. Bởi thế Nguyễn Dữ đã viết:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh vẫn là lời chung”
"Phận đàn bà" trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi dây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.
Bằng bút pháp kể chuyện, tình tiết lúc chân thật đời thường, lúc hoang đường kì ảo, Nguyễn Dữ đã xây dựng hình tượng nhân vật điển hình cho thân phận người phụ nữ ngày xưa. Họ thật đẹp, thật lý tưởng nhưng xã hội không cho họ hạnh phúc. Tác phẩm của ông vừa đề cao giá trị người phụ nữ lại vừa hạ thấp giá trị của xã hội phong kiến đương thời.
cko 5* và hay nhất ạ
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAP247