Trang chủ Ngữ văn Lớp 10 Phân Tích bài thơ tỏ lòng. Cứu ạ câu hỏi...

Phân Tích bài thơ tỏ lòng. Cứu ạ câu hỏi 3353009 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

Phân Tích bài thơ tỏ lòng. Cứu ạ

Lời giải 1 :

Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ Lão từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, ông cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó.

Phạm Ngũ Lão làm bài Thuật hoài vào cuối năm 1284, khi cuộc kháng chiến lần thứ hai đã đến rất gần. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Nội dung bài thơ khắc họa nổi bật vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại.

Phiên âm chữ Hán:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Dịch thơ tiếng Việt:

Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

(Bùi Văn Nguyên dịch)

Bài thơ được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 1400) là một triều đại lẫy lừng với bao chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Nguyên – Mông hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Đại Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng trung quân, ái quốc của đạo Nho. Ông nhận thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ có nhan đề chữ Hán là Thuật hoài: Thuật là kể lại, là bày tỏ; hoài là nỗi lòng. Dịch thành Tỏ lòng, nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng. Chủ thể trữ tình ở đây là vị danh tướng trẻ tuổi đang chỉ huy quân đội làm nhiệm vụ gìn giữ non sông.

Nguyên tác Thuật hoài bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, ở hai câu thơ đầu, tác giả bày tộ niềm tự hào to lớn về quân đội của triều đình; trong đó có mình – một vị tướng. Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những chiến binh quả cảm.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu. Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn đã mấy mùa thu. Dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo. Luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những con người chính nghĩa lồng lộng trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước suốt một thời gian dài. Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Đại Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Dịch nghĩa: Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu. Dịch thơ: Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta.

Hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên trong đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì bản thân tự lấy làm hổ thẹn:

Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)

Câu thứ ba, thứ tư nói lên khát vọng của Phạm Ngũ Lão là tận tâm phụng sự triều đại nhà Trần cho đến hết đời, lập được công danh sánh ngang với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng (Khổng Minh) là quân sư số một của LƯU Bị, có mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng lại là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Ông đã từng phát biểu quan điểm của mình là: Cúi mình tận tụy, đến chết mới thôi. Trở lại câu thơ thứ nhất, ta thấy Phạm Ngũ Lão mới phụng sự được có mấy thu (tức là mấy năm), muốn được như Gia Cát Lượng thì ông còn phải phụng sự nhiều lắm, lâu lắm! Câu thơ thứ tư: Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu thực chất là một lời thề suốt đời trung thành với chủ tướng Trần Hưng Đạo của Phạm Ngũ Lão.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình. Như thế ta có thể hiểu vì sao mà Phạm Ngũ Lão lại dùng từ thẹn. Cũng có thể đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão của ông là muốn noi gương thần tượng của mình, muốn sánh với Vũ hầu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim rồi soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng trượng phu. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ. Ông đã dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra những cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

Phạm Ngũ Lão suy nghĩ rất cụ thể và thiết thực: một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy tức là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. Ông muốn sống cho xứng đáng với thời đại anh hùng, dân tộc anh hùng.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau.

Thảo luận

Lời giải 2 :

Triều đại nhà Trần đã đi vào lịch sử dân tộc, đánh dấu một giai đoạn rực rỡ với những mốc son chói lọi của ba lần chiến thắng chống quân Nguyên – Mông. Hào khí Đông A ấy đã vang dội vào thơ văn tạo nên một dòng văn học yêu nước đặc sắc. Nằm trong dòng chảy ấy, “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão là một thi phẩm đã thể hiện sâu sắc không khí thời đại, tinh thần yêu nước và tầm vóc con người trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của non sông.

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng nổi tiếng đời Trần, ông được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn yêu mến và tin tưởng. Trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, Phạm Ngũ Lão đã có nhiều đóng góp làm nên chiến thắng chung của dân tộc. Tuy là một quan võ nhưng ông thích đọc sách, yêu thơ phú là một người văn võ toàn tài. Số lượng tác phẩm Phạm Ngũ Lão để lại không nhiều nhưng đều là những thi phẩm có giá trị. “Thuật hoài” là một trong những sáng tác đặc sắc của ông. Bài thơ được ra đời vào khoảng thế kỉ XII khi lực lượng quân dân nhà Trần đã lớn mạnh với khí thế chiến thắng tưng bừng nhưng cuộc kháng chiến vẫn chưa đi đến thắng lợi cuối cùng. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, thuộc loại thơ trữ tình ngôn chí được sáng tác để bày tỏ nỗi lòng. Bốn câu thơ như dồn đọng, chứa đựng trong đó không chỉ tâm tư của tác giả mà còn cả không khí của cả một thời đại oai hùng, mang dấu ấn của lịch sử và cảm xúc của muôn người.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh người tráng sĩ với tầm vóc sánh ngang vũ trụ:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”.

Dịch thơ:

“Múa giáo non sông trải mấy thu”.

So sánh bản dịch thơ và phiên âm, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt. Hành động của người tráng sĩ trong ý thơ của Phạm Ngũ Lão là “hoành sóc”, nghĩa là “cầm ngang ngọn giáo”, nhưng bản dịch thơ lại dịch là “múa giáo”. Động tác múa giáo chỉ thiên về biểu hiện, chưa diễn tả được hết tư thế, khí phách của người tráng sĩ sẵn sàng ra trận. Bản dịch thơ đã chưa dịch được sát và toát được trọn vẹn hồn thơ trong nguyên bản. “Cầm ngang ngon giáo” là hành động để trấn giữ, bảo vệ non sông, là nhiệm vụ nhưng cũng là hoài bão của biết bao tráng sĩ đời Trần, trong đó có cả Phạm Ngũ Lão. Câu thơ như gợi lên hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang, hùng dũng và vững chãi, luôn sẵn sàng bảo vệ non sông. Hình ảnh ấy cũng được làm nổi bật hơn trong bối cảnh không gian, thời gian đặc biệt. Đó là một không gian rộng lớn được đo bằng chiều dài của sông núi, đất nước. Ngọn giáo được cầm ngang như để đo được tầm vóc mênh mông của vũ trụ, như để xứng tầm với giang sơn, Tổ quốc. Không những được đặt trong không gian rộng lớn, hình ảnh người tráng sĩ còn được làm nổi bật hơn bởi thời gian lâu đến “mấy thu”. “Mấy thu” là mấy mùa hay mấy năm đã trôi qua, một hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng chỉ thời gian dài lâu sánh cùng không gian rộng lớn. Có thể nhận thấy rằng chính không gian và thời gian đó càng làm tôn thêm tư thế hiên ngang, khí phách anh hùng của người tráng sĩ. Hình ảnh người anh hùng thời đại càng được tô đậm, gây ấn tượng mạnh trong tâm trí người đọc với vẻ đẹp sánh ngang cùng núi sông, mang tầm vóc vũ trụ lớn lao, cao đẹp.

Nếu câu thơ thứ nhất làm nổi bật hình ảnh đẹp đẽ người tráng sĩ thì câu thơ thứ hai lại gợi đến hình ảnh “ba quân”. Phải chăng, đó không còn là hình ảnh của một người, một cá nhân mà là hình ảnh chung cho cả một thế hệ, một thời đại, một dân tộc:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.

Dịch thơ:

“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”.

Một lần nữa, bản dịch thơ lại chưa chạm tớ được hồn cốt của ý thơ. Hình ảnh so sánh ngầm “tì hổ” trong nguyên tác không được diễn tả trọn vẹn ở bản dịch thơ. Đánh mất đi hình ảnh so sánh ngầm đó, bản dịch thơ đã không làm nổi bật được cái khí thế mạnh mẽ oai hùng riêng có của quân dân nhà Trần thuở nào. Vế sau của câu thơ có nhiều cách hiểu. Chúng ta có thể hiểu như bản dịch thơ, sức mạnh của ba quân có thế nuốt trôi trâu hoặc cũng có thể hiểu theo cách khác là sức mạnh của ba quân lấn át cả sao Ngưu. Dù hiểu theo cách nào chúng ta cũng nhận thấy một điểm chung đó là sức mạnh hùng dung, oai phong riêng có của quân dân thời Trần, sức mạnh làm nên hào khí Đông A vang dội trong lịch sử. Ở câu thơ này, ngoài hình ảnh so sánh ngầm đậm tính ước lệ “tì hồ”, tác giả còn sử dụng biện pháp phóng đại để diễn tả khí phách ba quân. “Khí thôn ngưu” chỉ cách nói ấy, hình ảnh ấy mới làm nổi bật được cẩ một đội quân binh hùng tướng mạnh. Đó đâu chỉ là một đội quân võ biền mà là sức mạnh của cả trí và lực, của cả tinh thần sục sôi, yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc. Tinh thần ấy, khí thế ấy khiến ta như thấy được trước mắt hình ảnh hội ngị Diên Hồng vang to lời các bô lão: “Đánh!”, “Đánh!”, như thấy đâu đây hình ảnh đoàn binh một lòng đoàn kết, một lòng quyết tâm với chữ “Sát thát” trên tay. Phải chăng vì thế, đội quân ấy đã làm nên những chiến thắng lẫy lừng, để lại những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc.

Khi đặt hai câu thơ trong sợi dây liên kết, chúng ta càng nhận thấy sự cao đẹp của con người thời đại này. Hình ảnh người tráng sĩ được đặt trong hình ảnh ba quân, hòa vào ba quân làm nên sức mạnh và khí phách oai hùng, lẫm liệt. Tầm vóc con người đã được nâng cao lên thành tầm vóc vũ trụ, lớn lao trường tồn. Trong văn học trung đại, ta từng bắt gặp hình ảnh người tráng sĩ ra trận:

“Áo chàm đỏ tựa rang pha

Người chàng sắc trắng như là tuyết in”.

Người tráng sĩ trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm là người tráng sĩ mang vẻ đẹp lãng mạn trong nỗi nhớ nhung của người chinh phụ nơi quê nhà. Còn ở “Thuật hoài”, ta lại thấy tác giả khắc sâu vào khí phách, làm bật lên không khí thời đại, thể hiện sự hài hòa của hình ảnh con người, anh hùng cá nhân với đội quân đông đảo, hùng hậu, ba quân. Nó không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của một người cụ thể mà dường như còn gợi ra sức mạnh vững chắc của cả một dân tộc hiên ngang trước kẻ thù hung bạo.

 

Nếu hai câu thơ đầu trong bài xây dựng hình ảnh người tráng sĩ lòng trọn ba quân thì hai câu thơ sau thiên về tâm trạng của nhân vật trữ tình đúng như nhan đề bài thơ “Thuật hoài” – kể lại nỗi lòng:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Trong văn học trung đại, ta đã nhiều lần được nghe tới chí làm trai:

Chí làm trai nam bắc tây đông

Cho thỏa sức anh hùng trong bốn bể”.

Chí làm trai đã ăn sâu vào cốt tủy những đấng trượng phu. Họ có khát vọng lập công – làm nên sự nghiệp lớn và khát vọng lập danh – để lại tiếng thơm cho muôn đời. Phạm Ngũ Lão cũng không nằm ngoài số đó. Đây cũng chính là quan niệm nhân sinh lành mạnh của ông: Khát vọng được làm nên nghiệp lớn mà cụ thể ở đây là bảo vệ và xây dựng đất nước, để lại tiếng thơm và dấu ấn trong lịch sử là một khát vọng chính đáng và cao cả. Nó không phải là lòng tham công danh tầm thường, không phải là sự háo danh hay ham quyền đoạt vị. Nó là khát vọng cháy bỏng được sống có ích, sống ý nghĩa, sống phi thường. Phải chăng, đây chính là nét đẹp trong tâm hồn nhà thơ – một con người có hoài bão, lí tưởng cao đẹp, cháy bỏng? Và cũng phải chăng, nhờ những cá nhân với khát vọng cháy bỏng như thế mới là động lực để làm nên sức mạnh của ba quân, sức mạnh của dân tộc, của thời đại? Phạm Ngũ Lão cũng không nói suông, ông nói được làm được. Trong thực tế, Phạm Ngũ Lão là một tướng giỏi đã lập được nhiều chiến công, được phong danh, ban tước, được triều đình tin dùng và nhân dân yêu kính. Như thế, ông không chỉ lập ngôn mà còn lập được công danh cho mình. Nhưng ông vẫn tự thấy còn vương nợ, chưa trả xong món “nợ công danh” hay cũng chính là cái nợ với dân tộc khi chưa đánh đuổi được hoàn toàn giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi nước ta. Ông day dứt, cái day dứt của một con người có lương tri và trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc, trước nhân dân và thời đại. Phạm Ngũ Lão không chỉ thấy mình còn “vương nợ” mà còn thấy “thẹn” với lòng mình, “thẹn” khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu. Khổng Minh Gia Cát Lượng – người được coi là bậc đại trí, đại trung trong lịch sử Trung Hoa:

“Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.

Có lẽ, ông thấy mình chưa đủ tài, đủ lực để giữ nước như ngày xưa Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị chăng? “Thẹn” ở đây là sự tự xấu hổ, tự nhìn vào chính mình, tự trách chính mình. Đó là cái “thẹn” nâng tầm nhân cách, cái “thẹn” của một con người có trách nhiệm, lưu biết tự đấu tranh với chính mình. Tấm lòng của người tráng sĩ với đất nước ấy khiến ta nhớ tới hình ảnh người tráng sĩ bạc đầu mài gươm dưới trăng trong bài “Cảm hoài” của Đặng Dung thuở nào:

“Quốc thù chưa trả già sao vội

Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chày”.

Những người như Phạm Ngũ Lão, Đặng Dung sống trong bối cảnh thời đại, lịch sử thật đặc biệt. Quân Nguyên Mông mạnh như vũ bão thống trị, khuất phục xâm chiếm biết bao vùng đất, quốc gia. Vậy mà, khi đặt chân tới bờ cõi nước ta lại bị quân dân nhà Trần hết lần này đến lần khác đánh cho tán tác mà tháo chạy. Đó chẳng phải là một niềm tự hào riêng có, một khí thế Đông A mãi mãi trường tồn cùng lịch sử dân tộc, được tạo nên bởi những con người luôn biết “thẹn” như Phạm Ngũ Lão hay sao?

Bài thơ khép lại nhưng còn đọng mãi trong chúng ta hình ảnh người tráng sĩ, người anh hùng dân tộc mang khí phách hiên ngang, oai hùng lẫm liệt, mang hào khí Đông A tự hào của muôn đời. Bài thơ cũng gợi mở biết bao suy nghĩ cho thế hệ trẻ chúng ta hôm nay để sống trách nhiệm và ý nghĩa hơn. Tác giả đã khéo léo sử dụng những thủ pháp quen thuộc của văn học trung đại như phóng đại, ẩn dụ, so sánh, … để truyền tải thông điệp của bài thơ, làm nên một thi phẩm có giá trị, còn mãi với thời gian.

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Copyright © 2021 HOCTAP247