Tóm tắt bài
1.1. Tìm hiểu chung
a. Ôn lại khái niệm truyền thuyết
- Là loại truyện dân gian về các nhân vật, sự kiện có liên quan tới lịch sử thời quá khứ.
- Thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo.
- Thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật được kể.
b. Đọc tìm hiểu từ khó
- Đọc
- Từ khó
- "Tục truyền": phổ biến truyền miệng trong dân gian. Đây là 1 trong những từ ngữ thường mở đầu các truyện dân gian.
- "Tâu": Báo cáo, nói với vua
- "Tục gọi là": thường gọi là
c. Tóm tắt
Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn, có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Đã lên ba tuổi, cậu chẳng biết nói cười.
Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Sau khi ăn hết "bảy nong cơm, ba nong cà" do bà con gom góp mang đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gãy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.
Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm lập hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.
d. Đại ý
Thánh Gióng - hình tượng tiêu biểu, rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng đánh giặc giữ nước.
e. Bố cục
- Chia làm 4 đoạn
- Đoạn 1. Từ đầu..."nằm đấy: Sự ra đời kỳ lạ của Gióng
- Đoạn 2. Tiếp theo..."cứu nước": Gióng gặp sứ giả, cả làng nuôi Gióng.
- Đoạn 3: Tiếp theo..."lên trời": Gióng cùng nhân dân chiến đấu và chiến thắng giặc Ân
- Đoạn 4. Còn lại: Gióng bay về trời
1.2. Đọc - hiểu văn bản
a. Hình tượng Thánh Gióng
- Nguồn gốc ra đời
- Bà mẹ dẫm lên vềt chân to, lạ ngoài đồng và thụ thai
- Ba năm Gióng không biết nói, cười, đặt đâu nằm đó ⇒ kỳ lạ
- Câu nói đầu tiên
- Gióng nhờ mẹ ra gọi sứ giả vào để nói chuyện
- Câu nói đầu tiên với sứ giả là lời yêu cầu cứu nước, là niềm tin sẽ chiến thắng giặc ngoại xâm. Giọng nói đĩnh đạc, đàng hoàng, cứng cỏi lạ thường. Chi tiết kỳ lạ, nhưng hàm chứa 1 sự thật rằng ở một đất nước luôn bị giặc ngoại xâm đe dọa thì nhu cầu đánh giặc cũng luôn thường trực từ tuổi trẻ thơ, đáp ứng lời kêu gọi của tổ quốc
b. Cả làng, cả nước nuôi nấng, giúp đỡ Gióng chuẩn bị ra trận
- Gióng ăn khỏe, bao nhiêu cũng không đủ
- Cái vươn vai kỳ diệu của Gióng. Lớn bổng dậy gấp trăm ngàn lần, chứng tỏ nhiều điều :
- Sức sống mãnh liệt, kỳ diệu của dân tộc ta mỗi khi gặp khó khăn
- Sức mạnh dũng sỹ của Gióng được nuôi dưỡng từ những cái bình thường, giản dị
- Đó cũng là sức mạnh của tình đoàn kết, tương thân tương ái của các tầng lớp nhân dân mỗi khi tổ quốc bị đe dọa.
→ Chỉ có nhân vật của truyền thuyết thần thoại mới có sự tưởng tượng kỳ diệu như vậy.
c. Gióng cùng toàn dân chiến đấu và chiến thắng giặc ngoại xâm
- Đoạn kể, tả cảnh Gióng đánh giặc thật hào hứng. Gióng đã cùng dân đánh giặc, chủ động tìm giặc mà đánh
→ Chi tiết này rất có ý nghĩa: Gióng không chỉ đánh giặc bằng vũ khí vua ban mà còn bằng cả vũ khí tự tạo bên đường. Trên đất nước này, cây tre đằng ngà, ngọn tầm vông cũng có thể thành vũ khí đánh giặc
- Cảnh giặc thua thảm hại
- Cả nước mừng vui, chào đón chiến thắng
- Cách kể, tả của dân gian thật gọn gàng, rõ ràng, nhanh gọn mà cuốn hút.
d. Kết truyện: Gióng bay về trời
- Gióng bay lên trời từ đỉnh Sóc Sơn
- Ra đời phi thường à ra đi cũng phi thường
- Chứng tỏ Gióng đánh giặc là tự nguyện không gợn chút công danh. Gióng là con của thần thì nhất định phải về trời....
→ Nhân dân yêu mến, trân trọng muốn giữ mãi hình ảnh người anh hùng
⇒ Thánh Gióng trở về cõi vô biên bất tử.
-
Tổng kết
-
Nghệ thuật
- Xây dựng bằng nhiều chi tiết tưởng tượng, kỳ ảo, tạo nên vẻ đẹp hấp dẫn
-
Nội dung
- Thánh Gióng là thiên anh hùng ca thần thoại đẹp đẽ, hào hùng, ca ngợi tình yêu nước, bất khuất chiến đấu chống giặc ngoại xâm vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam thời cổ đại.
- Người anh hùng làng Phù Đổng – Thánh Gióng – là một biểu tượng tuyệt đẹp của con người Việt Nam trong chiến đấu và chiến thắng, không màng đến danh lợi, đẹp như một giấc mơ hồng
- Để thắng giặc ngoại xâm cần có tinh thần đoàn kết, chung sức, chung lòng, lớn mạnh vượt bậc, chiến đấu, hy sinh... Dựng nước và giữ nước à 2 nhiệm vụ thường trực.
-
Ghi nhớ
- SGK trang 23, Ngữ văn lớp 6 (tập 1)
Ví dụ
Đề bài: Anh (chị) hãy sắm vai nhân vật Thánh Gióng và kể lại câu truyện "Thánh Gióng"
Gợi ý làm bài chi tiết
1. Mở bài
- Vào đời Hùng Vương thứ sáu, Ngọc Hoàng muốn đưa tôi xuống trần gian đế làm việc tốt cho dân.
- Ngọc Hoàng cho tôi đầu thai bằng cách đặt một dâu chân thật to ngoài đồng. Nếu người phụ nữ nào ướm chân vào dấu bàn chân to đó về sẽ thụ thai.
- Đúng lúc dấu chân in xong thì có một bà lão ra đồng. Thấy vết chân lạ, bà liền đặt chân mình lên ướm thử.
- Về nhà ít lâu, bà có thai và sau mười hai tháng bà lão sinh ra tôi. Rất mừng vì tôi được sinh ra trong một gia đình ông bà lão có tiếng là phúc đức.
2. Thân bài
a. Khi mới chào đời
- Khi tôi sinh ra, ai cũng khen mặt mũi tôi khôi ngô. Từ khi sinh cho đến khi tôi được 3 tuổi, tôi không biết nói biết cười, chẳng biết đi. Cứ đặt đâu là tôi nằm đấy.
- Thấy tôi như vậy, bố mẹ tôi buồn lắm.
b. Khi giặc Ân đến xâm lược
- Lúc bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ sai sứ giả đi khắp nơi tìm người cứu nước.
- Nghe tiếng sứ giả rao, tôi mừng lắm vì đây chính là lúc tôi làm việc tốt giúp dân, giúp nước.
- Tôi liền nói với mẹ: “Mẹ ra mời sứ giá vào đây cho con thưa chuyện”. Bố mẹ tôi vô cùng ngạc nhiên và ra mời sứ giả vào nhà.
- Khi sứ giả vào, tôi nói với sứ giả: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Tôi thấy sứ giả vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ.
- Từ khi gặp sứ giả, tôi lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no. Áo vừa may xong đã chật.
- Bố mẹ tôi không đủ gạo cho tôi ăn. Bà con lối xóm vui lòng giúp đỡ vì ai cũng mong tôi giết giặc cứu nước.
- Giặc đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt.
- Vừa lúc đó, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến.
- Tôi vươn vai biến thành một tráng sĩ cao lớn, oai phong lẫm liệt.
- Tôi mặc bộ giáp sắt vào rồi nhảy lên mình ngựa. Ngựa hí vang dội.
- Tôi phi ngựa đến nơi có giặc. Tôi dùng roi sắt quật vào đầu giặc.
- Giặc chết như ngả rạ.
- Roi sắt gẫy, tôi nhổ bụi tre bên đường làm vũ khí đánh giặc.
- Giặc tan rã, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn.
c. Sau khi đánh tan giặc Ân
- Tôi đuổi giặc đến tận chân núi Sóc Sơn.
- Dứng trên đỉnh núi, tôi cởi bỏ giáp sắt.
- Tôi ngắm nhìn lại cảnh vật nơi đây rồi cưỡi ngựa bay thẳng về trời.
3. Kết bài
- Về trời được một thời gian thì tôi mới biết Ngọc Hoàng cho quân lính xuống trần gian để xem giặc tan, dân lành sống ra sao. Nhờ vậy, tôi mới biết được nhà vua và nhân dân đã phong cho tôi là Phù Đổng Thiên Vương.
- Những dấu chân ngựa sắt nay đã trở thành những ao hồ trên mặt đất.
- Những bụi tre bị ngựa phun lửa thiêu cháy nên mới ngả màu vàng. Tôi rất cảm động khi biết dân chúng xây đền thờ tôi ở làng Phù Đổng (còn gọi là làng Gióng). Vào tháng tư hằng năm, dân làng đã mở hội để tưởng nhớ đến công ơn của tôi. Mọi người gọi là Hội Gióng.
3. Soạn bài Thánh Gióng
Lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc ta được phản ánh sinh động qua kho tàng truyền thuyết. Trong đó có truyền thuyết về Thánh Gióng. Thánh Gióng là một hình tượng nghệ thuật tuyệt đẹp, là truyện cổ tràn đầy tinh thần yêu nước. Để nắm được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Thánh Gióng.
4. Một số bài văn mẫu về văn bản Thánh Gióng
Truyện “Thánh Gióng” là sản phẩm của trí tưởng tượng bay bổng của người xưa. Đồng thời, đây cũng là bài ca ca ngợi tinh thần yêu nước và ý chí quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Để cảm nhận được tinh thần yêu nước và ý chí ấy, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây: