+ Phần 1 ( từ đầu … sáng mắt ra): bài toán dân số được đặt ra từ thời cổ đại
+ Phần 2 ( tiếp … của bàn cờ): tốc độ gia tăng nhanh chóng dân số thế giới
+ Phần 3 ( còn lại): tìm kiếm lời lời giải cho bài toán dân số.
Bài toán dân số được đặt ra từ thời cổ đại. Đó là câu chuyện về một bài toán cổ của một nhà thông thái, kết quả từ một hạt thóc thực hiện cấp số nhân trên 64 ô của bàn cờ, số thóc được tính ra đủ mức bao phủ hết bề mặt trái đất này. Hiện nay, loài người đang ở ô thứ 34. Khả năng sinh để của các phụ nữ ở châu Phi, một số nước châu Á ở mức cao. Bởi vậy, cần góp phần làm con đường đi đến ô 64 của bàn cờ dài hơn. Đó là con đường “tồn tại hay không tồn tại” của chính loài người.
Bài 1 ( trang 132 sgk ngữ văn 8 tập 1):
- Bố cục được chia như ở trên.
Luận điểm phần thân bài: tốc độ gia tăng nhanh chóng dân số thế giới
+ Luận điểm 1: Từ “Đó là câu chuyện…” đến “kinh khủng biết nhường nào!”.
mỗi ô của bàn cờ lúc đầu chỉ có vài hạt thóc, tưởng là ít, nhưng sau đó cứ gấp đôi theo cấp số nhân thì số thóc của bàn cờ là một con số khủng khiếp .
+ Luận điểm 2: Từ “Bây giờ nếu ta…” đến “không quá 5%”. Tác giả so sánh sự gia tăng dân số giống như số lượng thóc trong các ô bàn cờ
+ Luận điểm 3: Từ “Trong thực tế…” đến “ô thứ 31 của bàn cờ”. Thực tế, mỗi phụ nữ lại có thể sinh rất nhiều con (lớn hơn 2 rất nhiều) vì thế chỉ tiêu mỗi gia đình chỉ có một đến hai con là rất khó thực hiện.
Bài 2 ( trang 131 sgk Ngữ văn 8 tập 1):
-Vấn đề chính mà tác giả muốn đặt ra trong văn bản này là:
Đất đai không sinh thêm trong khi con người đang tăng với cấp số nhân. Vì vậy, cần hạn chế sự gia tăng dân số, nếu không con người sẽ tự hại chính mình.
-Tác giả “sáng mắt” ra từ câu chuyện về bài toán cổ kén rể của một nhà thông thái thời cổ đại.
Bài 3 ( trang 131 sgk ngữ văn 8 tập 1):
Câu chuyện kén rể của nhà thông thái có vai trò, ý nghĩa trong việc làm nổi bật vấn đề chính mà tác giả muốn nói tới:
-Cho người đọc hình dung được tốc độ gia tăng dân số nhanh chóng, khủng khiếp.
-Tạo nên sự tò mò, hấp dẫn cho người đọc.
Bài 4 ( trang 132 sgk ngữ văn 8 tập 1):
-Việc đưa ra những con số về tỉ lệ sinh của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của hội nghị Cai-rô nhằm mục đích:
+ Thực tế, phụ nữ có thể sinh nhiều hơn 2 con.
+ Tỉ lệ sinh cao thường rơi vào các nước kém phát triển.
-Những nước châu Phi: Nê-pan; Ru-an-da; Tan-da-ni-a; Ma-đa-gát-xca. Những nước châu Á: Ấn Độ và Việt Nam. Hai châu lục này có nền kinh tế chưa phát triển mạnh, đặc biệt châu Phi còn kém phát triển về nhiều mặt. Tuy nhiên tỉ lệ sinh lại ở mức cao. Do đó, có thể thấy, sự phát triển kinh tế phụ thuộc nhiều vào tốc độ gia tăng dân số.
Bài 5 ( trang 132 sgk ngữ văn 8 tập 1):
Văn bản này đem lại những hiểu biết:
-Sự phát triển kinh tế xã hội phụ thuộc nhiều vào tốc độ gia tăng dân số.
-Tốc độ gia tăng dân số ở Việt Nam đang ở mức cao, cần có giải pháp hạn chế kịp thời.
Bài 1 ( trang 132 sgk ngữ văn 8 tập 1):
Con đường tốt nhất để hạn chế gia tăng dân số là: đẩy mạnh giáo dục cho phụ nữ. Bởi vì sinh đẻ là quyền của phụ nữ, do đó cần tác động đến ý thức bảo vệ, phát triển cuộc sông của bản thân và xã hội cho chị em.
Bài 2 ( trang 132 sgk ngữ văn 8 tập 1):
- Dân số gia tăng có tầm quan trọng hết sức to lớn đối với tương lai nhân loại, nhất là đối với các dân tộc nghèo nàn, lạc hậu vì:
+ Dân số tăng trong khi diện tích đất ngày càng thu hẹp.
+ Dân số phát triển quá nhanh ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội: thực phẩm, nguồn nước có hạn, áp lực việc làm, giáo dục, dịch vụ ý tế, phúc lợi...
+ Các nước còn nghèo nàn lạc hậu lại càng nghèo nàn lạc hậu hơn, vì hạn chế phát triển giáo dục.
Bài 3 ( trang 132 sgk ngữ văn 8 tập 1):
- Dân số thế giới ở vào thời điểm 2000: 6.080.141.683 người.
- Dân số thế giới ở vào thời điểm 30-9-2003: 6.320.815.650 người.
- Từ năm 2000 đến 30-9-2003 số người trên thế giới đã tăng 241.673.967 người, gấp 3 lần số dân Việt Nam hiện nay.
Copyright © 2021 HOCTAP247