Thuyết minh về dinh độc lập
Bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn làm sáng tỏ nội dung lý thuyết về dàn ý thuyết minh về dinh độc lập lớp 9!
Sau khi khéo léo và kiên quyết xác lập cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế với lập luận chặt chẽ đầy thuyết phục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời tuyên bố về quyền độc lập dân tộc và bày tỏ quyết tâm bảo vệ quyền độc lập ấy. Dinh độc lập là nơi đánh dốc mốc thời gian thống nhất đất nước và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
Ngay trong những ngày Cách mạng tháng Tám sôi nổi, hào hùng, toàn dân náo nức trong chiến thắng, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã nhận thấy vận mệnh nước ta đang "ngàn cân treo sợi tóc". Trong nước, bọn phản động tìm cách ngóc đầu dậy đòi lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trên thế giới, bọn đế quốc đang lăm le tiến vào Việt Nam. Hội nghị Pốtxđam (7-1945) quyết định: Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào: Tưởng Giới Thạch từ vĩ tuyến 16 trở ra. Để chuẩn bị cho âm mưu tái chiếm Việt Nam, thực dân Pháp tung ra trước dư luận thế giới luận điệu xảo trá: Đông Dương là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hóa xứ này đương nhiên có quyền trở lại. Chính tướng Đờ-gôn đã tuyên bố sẽ tổ chức Đông Dương thành liên bang gồm "5 nước tự trị" (Lào - Campuchia - Nam Kì - Trung Kì - Bắc Kì) Tất cả được đặt dưới sự chỉ đạo của quan toàn quyền.
Dinh độc lập được biết đến trong hoàn cảnh đó. Cho nên Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định quyền độc lập của nước Việt Nam mới mà còn viết một bản luận chiến sắc sảo bác bỏ và đập tan luận điệu của thực dân Pháp, đánh đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Việt Nam của Pháp và âm mưu can thiệp vào Việt Nam của các nước đế quốc khác, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế.
Bằng những lí lẽ, lập luận chặt chẽ, sắc sảo, vừa khéo léo vừa kiên quyết, Hồ Chí Minh đã triệt để phủ nhận quyền dính líu tới Việt Nam của Pháp Đó chính là cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế của dinh độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nền độc lập của dân tộc Việt Nam bằng ba câu văn hết sức ngắn gọn nhưng ý nghĩa vô cùng sâu sắc:
"Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị".
Sự xác nhận sự hết thời của thực dân, phát xít và phong kiến. Tiếp đó khẳng định nền độc lập dân tộc. Rồi khẳng định chính thể mới. Ba câu văn ngắn gọn, cô đọng, hàm súc gợi mở nhiều lớp nghĩa. Đặc biệt câu thứ nhất, câu văn chỉ có 7 từ mà gần như gói trọn lịch sử 100 năm chống Pháp của dân tộc, khái quát những sự kiện lịch sử trọng yếu, gợi được tầm cỡ vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Sự thật lịch sử được gợi lên với không khí sử thi hoành tráng, không khí vùng lên quật khởi của dân tộc và sự thảm bại của bọn xâm lược cùng bọn tay sai bán nước. Cùng một lúc, Cách mạng tháng Tám đã giải quyết cả hai nhiệm vụ: độc lập dân tộc và dân chủ, đưa nước Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới.
Từ thực tế lịch sử đó, ban tuyên ngôn đi đến tuyên bố lập trường của nước Việt Nam mới: "Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu của toàn dân Việt Nam..." Lời tuyên bố vang lên dõng dạc, tự hào, xác định tư thế độc lập, tự chủ, xác định chủ quyền đất nước.Thuyết minh về dinh thống nhất.
Tiếp đó là lời tuyên bố với thực dân Pháp. Lời tuyên bố vừa đầy đủ, toàn diện vừa chặt chẽ, dứt khoát: "tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Lời tuyên bố kiên quyết và dứt khoát, âm hưởng câu văn dõng dạc, hùng hồn. Hồ Chí Minh đã bác bỏ toàn bộ luận điệu xảo quyệt của Pháp trước dư luận thế giới. Hoàn cảnh lịch sử lúc đó có thể có người nghĩ rằng Việt Nam là thuộc địa của Pháp bị phát xít Nhật chiếm, nay Nhật hàng, Pháp có quyền trở lại. Điều tuyên bố quan trọng nhất là tuyên bố về quan hệ với Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam. Người viết dùng chữ "về" chứ không phải chữ "với". Kí "về" Việt Nam là kí có tính chất áp đặt, ép buộc, còn kí "với" Việt Nam là ký trên tinh thần hợp tác. Pháp ký "về" Việt Nam là kí trong tình trạng "ép cung" triều đình nhà Nguyễn. Những từ: "thoát ly hẳn", "xóa bỏ hết", "xóa bỏ tất cả" đã nhấn mạnh một cách kiên quyết, dứt khoát việc cắt đứt mọi sự dính líu của Pháp tối Việt Nam tại dinh độc lập.
Tiếp theo là sự ràng buộc các nước Đồng minh vào việc công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam: "Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận các nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập dân tộc Việt Nam". Những câu văn khẳng định hoặc phủ định của phủ định có tác dụng mạnh mẽ trong việc buộc các nước Đồng minh phải công nhận và tôn trọng quyền độc lập dân tộc của Việt Nam. Đó là một lẽ tất yếu không thể khác.
Không những thế, để tăng sức thuyết phục, bẻ gãy hoàn toàn luận điệu của Pháp, bản tuyên ngôn nêu lên một thực tế: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập. Những câu văn với kết cấu song hành tạo nên một điệp khúc âm vang vừa hào hùng vừa đanh thép thể hiện thế đứng và quyền của dân tộc Việt Nam. Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật thì dân tộc Việt Nam đại diện Đồng minh đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng đã giành được chủ quyền từ tay Nhật. Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính cách đê hèn, tàn bạo ở hành động thẳng tay "khủng bố” Việt Minh" thậm chí đến khi thua chạy chúng còn "tàn nhẫn giết chết số động từ ở Yên Bái và Cao Bằng" thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo "giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên giới", "cứu cho nhiều người Pháp khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tải sản, tính mạng cho họ". Đó là truyền thống mà dân tộc ta đã có từ ngày lập nước và Nguyễn Trãi cũng đã từng nói đến trong Bình Ngô đại cáo.
Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo. Một dân tộc đã anh dũng chiến đấu cho độc lập, tự do. Một dân tộc luôn nêu cao lá cờ bác ái, nhân đạo. "Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Lời khẳng định hùng hồn như một chân lý bất di bất dịch.
Tất cả những lời tuyên bố trên là tiền đề về lí luận cũng như tạo không khí để đưa đến cao trào, đó là lời tuyên bố cuối cùng, lời tuyên bố trịnh trọng trước thế giới về ba phương diện của một nước Việt Nam tự do, độc lập.
Hưởng tự do, độc lập không phải chỉ là một cái quyền phải có, không phải chỉ là một tư cách cần có mà đó là một hiện thực. Lời tuyên bố có ý vị như một lời thề bộc lộ ý chí và quyết tâm cao độ của dân tộc việt Nam. Câu văn kết lại bản tuyên ngôn cũng chính là mở ra một thời kỳ mới, thời kì đấu tranh “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh" (Hồ Chí Minh- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến) để đánh đuổi thực dân Pháp, bảo vệ chủ quyền đất nước.
Tóm lại, Dinh độc lập có giá trị nhiều mặt, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, tiến bộ: chấm dứt chế độ phong kiến, đánh đổ xiềng xích thực dân, xây dựng một nước Việt Nam mới, mở ra kỉ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Với nội dung đề đạt sâu sắc, toàn diện, chặt chẽ, dứt khoát. Sức thuyết phục mạnh mẽ chính là chính là ở tài nghệ chính luận của tác giả, những nguồn gốc sâu xa chính tà ở tấm lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập dân tộc cao cả và khát vọng hòa bình cháy bỏng. Tất cả những điều đố đã trở thành máu thịt, thành lẽ sống trong tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của người viết.
Dinh độc lập hồi đó là một vị trí thể hiện cột mốc anh hùng của của thời đại Hồ Chí Minh và các người lính. Đó là khát vọng của cả dân tộc. Đó là thành quả đấu tranh trong gần một thế kỷ của cả dân tộc. Máu của hàng triệu người Việt Nam yêu nước đã hi sinh trong cuộc đấu tranh bền bỉ, kiên cường ấy. Không những thế còn là sự hun đúc của hồn thiêng sông núi, tiếp nối truyền thống Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam, ý chí và sức mạnh Việt Nam để từ đây mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.
Với những gì mà đã giúp các bạn khái quát nội dung về bài thuyết minh về dinh độc lập ngắn gọn trên đây, hy vọng sẽ giúp các bạn đạt kết quả cao trong học tập!
Copyright © 2021 HOCTAP247