Hướng dẫn soạn bài Phú sông Bạch Đằng

Lý thuyết Bài tập

Tóm tắt bài

Câu 1. Đọc Tiểu dẫn để nắm được bố cục bài phú, vị trí của chiến thắng Bạch Đằng trong lịch sử và đề tài sông Bạch Đằng trong văn học. Đọc kĩ các chú thích để hiểu được các từ khó, các điển tích, điển cố.

   Bài phú, kết cấu và bố cục:

   Phú nghía đen ỉà bày tò ra, phơi bày ra. ở đây phú ỉà một thể vân vần, ỉà một thể tài của văn học trung đại của Trung Quốc và được chuyển dụng nước ta. Dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Có phú cổ thể và phú Đường luật. Phú cổ thể còn Jgọi ỉà phú lưu thủy (nước cháy) có trước dời nhà Đường, có vần mà không nhất thiết phải có đối. Phú Đường luật dặt ra từ đời nhà Đường có vần, có đối và có luật bằng trắc chặt chẽ.

   Bài phú về sồng Bạch Đằng thuộc phú cổ thể.

   Bài phú này cấu trúc theo lối kể chuyện. Khách (cũng cổ thể là tác giả) giong thuyền chơi sông qua nhiều cảnh đẹp đến sông Bạch Đằng được nghe các vị bô lão nơi dây kể về bao chiến công ngày trước. Hết lời kể có lời ca về chiên công. Nhân nghe, khách cũng có lời ca nôi tiếp.

   Bài này có kết cấu giống như một bài phú luật Đường.

   a.Mở đầu (lung khởi).

   b.Nêu mục đích (biện nguyên).

   Hai phần này xem như phá đề, thừa đề trong thơ thất ngôn bát cú luật Đường.

   c.Nói sự thật (thích thực).

   d.Mở rộng sự thật (phu diễn).

   đ. Bàn bạc (nghị luận đoạn này xem như hai câu luận trong thơ thất ngôn bát cú).

   e.Kết (như hai câu kết trong thơ thất ngôn).

 Như vậy kết cấu bài Phú sông Bạch Đằng là:

  Phần 1: Từ đầu đến “tha thiết”-, thú du ngoạn của tác giả.

  Phần 2: Từ “Bên giữa dòng...” đến “... lệ chan”: thú du ngoạn của tác giả trên sông Bạch Đằng.

   a,Từ “Bèn giữa dòng...” đến "... luống còn lưu”: cảm xúc trước cảnh sông.

   b,Từ “Bên sông...” đến "... ca ngợi”: các bô lão kể lại chiến công xưa.

   c,Từ “Tuy nhiên...” đến "... lệ chan”: lời bình luận của tác giả.

 Phẩn 3: Từ “Rồi vừa đi...m đến "... đức caom.

Bài học từ chiến công xưa và chân lí giữ nước.

.  Vị trí của chiến thắng Bạch Đằng trong lịch sử và đề tài sông Bạch Đằng trong vân học.

   Bạch Đằng là một nhánh của sông Kỉnh Thầy đổ ra biển thuộc Quầng Ninh phía gần Thủy Nguyên, Hải Phòng. Nơi đây, năm 938 Ngô Quyền đà đánh tan quân Nam Hán, giết Lưu Hoằng Thao (Thái tử con vua Nam Hán) và năm 1288, Trần Hưng Đạo đánh tan giặc Nguyên Mông, bắt sống tướng Ô Mã Nhi. Từ đó, sông Bạch Đằng trở thành một di tích lịch sử lừng danh được nhiều nhà thơ lấy làm đề tài sáng tác ca ngợi. Có thể kể đến Trần Minh Tông với Bạch Đằng giang, Nguyễn Sưởng với Bạch Đàng giang, Nguyền Trãi với Bạch Đằng hải khâu, Nguyễn Mộng Tuân với Hậu Bạch Đằng giang phú. Trong đó nổi tiếng hơn hết là bài Phú sông Bạch Đàng của Trương Hán Siêu. Trương Hán Siêu, lúc đó là trọng thần của nhà Trần, có dịp dạo chơi sông Bạch Đằng và làm bài phú này. Bài phú bằng chữ Hán, bài trích giảng là bản dịch của Bùi Văn Nguyên.. Có người cho rằng Bạch Đằng giang phú dược Trương Hán Siêu sáng tác khoảng 50 năm sau chiến thắng 1288.

— Học sinh cần đọc kĩ các chú thích để hiểu được các từ khó, các điển tích điển cố: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Đầm Vân Mộng, Tử Trường, Hợp Phì, Xích Bích...

Câu 2. Mở đầu bài phú, nổi bật lên là hình tượng nhân vật "khách". Anh (chị) hãy tìm hiểu:

- Mục đích dạo chơi thiên nhiên, chiến địa của "khách"?

- "Khách" là người có tráng chí (chí lớn), có tâm hồn như thế nào qua việc nhắc đến những địa danh lịch sử của Trung Quốc và miêu tả những địa danh lịch sử của đất Việt?

   Nhân vật khách có thể là chính tác giả. Ông là một nhà Nho, một viên tướng của triều đình, một nhà thơ. Tuy tuổi đã già nhưng “tráng trí vẫn còn tha thiết” nên ông đã học người xưa đi khắp nơi thưởng ngoạn phong cảnh, mở rộng hiểu biết, di dưỡng tinh thần, sống cuộc đời tự to tự tại. Qua phân tích các hình ảnh liệt kê về không gian rộng lớn, thời gian liên hoàn và ngữ điệu trang trọng qua các từ “chừ" nhấn mạnh ngắt nhịp trong các câu từ “Giương buồm giong gió chơi vơi” đến “Tam Ngô, Bách Việt”, ta có thể nhận xét về nhân vật khách:

   - Khách” là người mang tính chất tráng sĩ phóng khoáng, mạnh mẽ, đồng thời cũng là một “tao nhân mặc khách” ham thích du ngoạn, đi nhiều, biết rộng, làm bạn với gió trăng, qua nhiều miền sông bể.

   - “Khách” tìm đến những địa danh lịch sử (đặc biệt là Bạch Đằng) để ngợi ca và suy ngẫm.

   - Nhân vật “Khách” tuy có tính chất công thức của thể phú song với ngòi bút tài hoa, Trương Hán Siêu đã thổi hồn vào thành một nhân vật sinh động. “Khách" chính là cái tôi tác giả - một con người mang tính cách tráng sĩ với tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng ưu ái đối với lịch sử đất nước.

   - Cái tráng chí bốn phương của nhân vật “khách” (cũng là của tác giả) được gợi lên qua những địa danh, “khách” đã “đi qua” hai loại địa danh, loại địa danh lấy trong điển cố Trung Quốc (Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt...) và loại địa danh của Đất Việt (cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng...). Loại địa danh thứ hai thể hiện tráng chí bốn phương, loại địa danh thứ hai mang tính cụ thể, đương đại, thể hiện tình yêu đất nước, tâm hồn ưu ái đối với cảnh trí non sông.

Câu 3. Cảm xúc của “khách” trước khung cnh thiên nhiên sông Bạch Đằng: Phấn khởi, tự hào? Buồn thương, nuối tiếc vì những giá trị đang lùi vào quá khứ? Lí giải cách lựa chọn của anh (chị). (Lưu ý đặc điểm hình ảnh thiên nhiên và giọng văn trong đoạn " Qua cửa Đại Than... dấu vết luống còn lưu".)

   Bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học yêu nước thời Lí, Trần. Tác phẩm này thể hiện một cách sâu sắc niềm tự hào dân tộc, tự hàọ trước truyền thống dũng cảm, bất khuất, đặc biệt là truyền thống nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc ta.

   Trong bài phú có hai nhân vật trữ tình: nhân vật khách (cái tôi trữ tình của tác giả) và nhân vật tập thể các vị bô lão địa phương. Thông qua hình thức đối thoại giữa khách và bô lão địa phương, Bài phú sông Bạch Đằng đã thể hiện những xúc cảm, nghĩ suy của nhà văn về đất nước, dân tộc, về đạo lí nhân nghĩa từ dòng sông lịch sử.

    Mở đầu tác phẩm, hình tượng khách nổi bật lên với một cảm hứng bi tráng hào hùng, với một tư thế ung dung, phóng khoáng, tự hào. Đó chính là một mặc khách tao nhân có “tráng chí bốn phương”, "giương buồm giong gió”, “lướt bể chơi trăng” không chỉ để thưởng ngoạn vẻ đẹp non sông mà còn để tìm hiểu cảnh trí đất nước, bồi dưỡng kiến thức của mình. Cái “tráng chí bôn phương” của khách được gợi lên qua những địa danh. Đầu tiên là những địa danh (1) lấy trong điển cô" Trung Quốc như Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt Những nơi này khách đà đi qua chủ yếu bằng sách vở và bằng trí tưởng tượng: "Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương. Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt". Sau đó là những địa danh của Đại Việt ta với những không gian cụ thể cửa Đại Than, bẽn Đông Triều, sông Bạch Đàng; một thời gian xác định tháng chín (ba thu) và cảnh sắc thiên nhiên xác thực trực tiếp mắt thấy tai nghe hừng vĩ và hoành tráng: uBát ngát sóng kình muôn dặm. Thướt tha đuôi trĩ một màu" nhưng cũng ít nhiều đượm vẻ ảm đạm hiu hắt., ".bến lách dìu hiu. Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô". Trước cảnh tượng ấy, lòng khách sao khỏi dấy lên nhiều cảm xúc khác nhau vui buồn lần lộn, vừa hân hoan vừa sầu thảm, vừa nuối tiếc vừa tự hào. Hân hoan trước cảnh sông nước oai hừng thơ mộng, tự hào với dòng sồng từng ghi bao chiến công diệu kì hiển hách của cha ông nhưng lòng khách cũng không khỏi sầu thảm tiếc thương cho cảnh chiến trường xưa oanh liệt, bao sự nghiệp anh hùng ngày nào chói lọi đang bị thời gian làm cho mờ mịt, quạnh hiu:

                                  Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.

                                 Thương nồi anh hùng đâu vắng tá,

                                 Tiếc thay dấu vết luống còn lưuỉ

   Để thể hiện tâm trạng đó, giọng văn của tác giả sảng khoái, hào hùng khi bày tỏ nỗi hân hoan, niềm tự hào hoặc trầm lặng, bi thiết khi diễn đạt nỗi lòng sầu thảm, nuối tiếc.

Câu 4. Vai trò của hình tượng các bô lão trong bài phú? Chiến tích trên sông Bạch Đằng đã được gợi lên như thế nào qua lời kể của các bô lão? Thái độ, giọng điệu của họ khi kể chuyện?

Qua lời bình luận của các bô lão (đoạn "Tuy nhiên: Từ có vũ trụ... Nhớ người xưa chừ lệ chan"), trong các yếu tố: địa thế sông núi, con người, theo anh (chị), yếu tố nào giữ vai trò quan trọng nhất làm nên chiến thắng Bạch Đằng?

   Nếu sự xuất hiện của nhân vật khách trong trạng thái trầm tư như vừa nói là một câu hỏi thì tiếng nói của các bô lão tiếp đó chính là câu trả lời. Rộn rịp trên bến dưới thuyền, các bô lão đến với khách, hoặc "...gậy lê chống trước" hoặc "...thuyền nhẹ bơi sau". Có thể có người dăm chục năm trước, đã từng góp sức làm nên chiến công lịch sử. Đại diện cho dân địa phương, với thái độ tôn kính, họ đã nhiệt tình kể lại cho khách nghe về chiến tích "...Trùng Hưng nhị thánh bắt o Mã" sau một câu hồi tưởng trận "...Ngô chúa phá Hoằng Thao”. Lời kể bám theo diễn biến của tình hình trận mạc. Lời kể đầy hào hứng sôi nổi dủ để cho thấy dó là một trận đánh tầm cỡ, dữ dội “mặt đối mặt” giữa hai đội quân dũng mãnh, trận thế quyết liệt, giằng co: quỷ khốc thần sầu, dộng trời sát khí.

                                  Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,

                                  Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.

                                 Trận đảnh được thua chửa phân Chiến lũy Bắc Nam chổng đổi.

                                 Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

                                Bầu trời đất chừ sắp đổi.

   Tuy quán giặc quá mạnh và đầy mưu ma chước quỷ, tuy nhất thời ta lâm vào thế bí, tường chừng cơ dồ bị mất nhưng cuối cùng, quân ta vẩn thắng, kẻ thù thua trận phải chịu nhục muôn dời.

   Nhìn chung ở đoạn này, lời kể súc tích, cô đọng, khái quát làm sống dậy không khí bừng bừng của chiến trận đẩy nhiệt huyết tự hào được tạo nên bởi những câu vân dài ngắn khác nhau, lời kể với âm điệu hùng hồn, sinh động rất thích hợp với việc thể hiện khí thế, tình huống, diễn biến của chiến cuộc.

   Sau lời kể về trận chiến là lời suy ngẫm, bình luận của các bô lão về nguyên nhân chiến thắng của trận Bạch Đằng. Theo các cụ, ta thắng giặc vi đất nước ta tồn tại từ ngàn xưa: ...Từ có vũ trụ, đã có giang san” lại nữa "...trời đất cho nơi hiểm trở". Nhưng điều quyết định hơn cả là ta có "...nhăn tài giữ cuộc điện an" nói rõ hơn là có "...đại vương coi thể giặc nhàn". Chính vì vậy, ta đã làm nên chiến tích diệu kì khiến cho “Tiếng thơm còn mãi. Bia miệng không mòn". Như vậy, dể giữ yên bờ cõi, quét sạch bóng thù, yếu tố quyết định hóa ra chính là sức mạnh của con người. Khẳng dinh, ca ngợi sức mạnh, vị trí của con người như thế là đầy cảm hứng nhân văn và có tầm triết lí sâu sắc. Giọng văn ở đây thật trang trọng, tự hào, rành rẽ, chắc nịch và rất đỗi chân tình.

Kết thúc lời kể và suy ngầm về quá khứ, các bô lão trở lại thực tại, cũng cùng tâm trạng như khách vừa rồi là tràn ngập một nỗi buồn đau, nhớ tiếc: 

                                            Đến bên sông chừ hổ mặt,

                                        Nhớ người xưa chừ lệ chan.

Câu 5. Li ca của các vị bô lão và lời ca ni tiếp của“khách nhằm khẳng định điều gì?

   Nhưng lời ca tiếp đó của các bô lão lại dõng dạc và sảng khoái biết bao. Có giá trị như một tổng kết về lời kể chiến trận bẽn trên, lời ca gói gọn chỉ trong bôn câu:

                                                Sông Đằng một dải dài ghè

                                        Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông

                                               Những người bất nghĩa tiêu vong

                                      Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

   Có thể xem đây là một tuyên ngôn về chân lí: những người bất nghĩa như Lưu Cung thì phải tiêu vong, những người anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo thì lưu danh mãi mãi. Đây là một chân lí bất biến vĩnh hằng giống như quy luật tự nhiên là sông Bạch Đằng mãi mãi đêm ngày “cuồn cuộn tuôn về bể Đông” vậy.

   Cuối cùng, sau khi nghe lời kể và lời ca của các vị bô lão, khách cũng nối tiếp bằng bốn câu ca đầy hứng khởi tự hào:

                                                   Anh minh hai vị thánh quân

                                           Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

                                                 Giặc tan muôn thuờ thăng bình
                                         Bài đâu đất hiểm, cốt minh đức cao.

   Ca ngợi sự anh minh của hai vị thánh quân (Trán Thánh Tông và Trần Nhân Tông), đồng thời khách củng ca ngợi chiến tích của sông Đạch Đàng lịch sử, nơi hai vua đă đến đuổi giặc, rửa giáp binh, vân hồi cuộc sổng thăng bình muôn thuở cho đất nước. Ở hai câu cuối của lời ca này, khách khẳng định mạnh mẽ với tâ't cả lòng tỉn của mình ỉà chiến công vang dội trên sông Bạch Đằng cửa cha ông không phải do “đất hiểm trời cho" mà chủ yếu là do dân tộc ta có đức cao, đức lành, địa linh sinh nhân kiệt. Đúng là khách đả thấy rõ hơn các bô ỉăo khỉ giảm thiếu tác dụng của đất hiểm nâng cao vai trò, vị trí quyết định của con người đức cao.

   Lời ca viết bằng thể lục bát vang vọng thiết tha nghe như những lời truyền phán thiêng liêng thể hiện một thái độ trang nghiêm thành kính, tự hào.

Câu 6. Phát biểu v giá trị nội dung và nghệ thuật của bài phú.

  - Giá tri nội dung:

   Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu ca ngợi dòng sông Bạch Đằng hùng vĩ, ca ngợi những người anh hùng đã lập nên những chiến công hiển hách trên dòng sông lịch sử này với tiếng nói tràn đầy cảm hứng say mê và tự hào về truyền thông anh hùng bất khuất và truyền thông đạo lí nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam. Đề cao vai trò vị trí của con người, bài phú cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp.

- Giá trị nghệ thuật:

   Đây là tác phẩm tiêu biểu, đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam, với lếỉ câu tứ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, bút pháp đa dạng, lời văn sinh động, hình tượng nghệ thuật đặc sắc, có tính khái quát. Ngoài ra, ngôn từ của bài phú trang trọng, tráng lệ vừa có chất sử thi bay bổng, vừa có chất trữ tình sâu lắng.

 

Copyright © 2021 HOCTAP247