Và không nằm ngoại lệ, tư tưởng ấy được đặc biệt nhấn mạnh trong chùm thơ Tự Tình. Ba tác phẩm trong chùm thơ là sự nhất quán trong nỗi tự thương mình trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi và khao khát khát mãnh liệt có được hạnh phúc lứa đôi. Không phải sự hiền lành cam chịu, thơ của bà luôn cố gắng vùng vẫy, bứt phá để giành lấy mình muốn thế nhưng nhưng tất cả nhận được vẫn chỉ là thất bại cay đắng.
Tác phẩm thường gây ấn tượng nhất trong chùm thơ chắc hẳn là Tự Tình II. Trước hết thân phận người phụ nữ trong bài thơ được thể hiện đầy cay đắng xót xa. Họ ý thức về thân phận mình, ý thức về tuổi thanh xuân trôi nhanh mà hạnh phúc lứa đôi chưa được trọn vẹn:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu đưa hương say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Khi màn đêm buông xuống, cảnh vật xung quanh dần dần chìm vào giấc ngủ để lại trạng thái tĩnh lặng thì đâu đây lại bỗng vang lên tiếng trống canh “văng vẳng”. Sự đối lập này khiến âm thanh ấy lại càng da diết, dồn dập hơn, thúc giục nhân vật trữ tình ngẫm nghĩ về sự chảy trôi của thời gian và thanh xuân.
Người phụ nữ ấy thấy mình dường như thật trơ trọi như tiếng trống kia, cô đơn giữa không gian hiu quạnh. Chữ “trơ” được đặt ở đầu câu thơ thứ hai lại càng nhấn mạnh điều này, vào sự vào thân phận bất hạnh của “hồng nhan”. Hồng nhan vốn được hiểu là là người con gái xinh đẹp có nhan sắc, vậy tại sao lại phải chịu cảnh bạc mệnh?
Điều này vẫn luôn được nhắc đến trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XVIII như lời chứng thực, lại cũng như lời than thương thay cho những thân phận ấy:
Rằng hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Ở trong Tự Tình II, Hồ Xuân Hương cũng dùng “hồng nhan” với chính xác ý nghĩa này, với sự chua xót với những gì mà phụ nữ phải chịu trong xã hội phong kiến. Trước nỗi đau ấy, nhân vật trữ tình chỉ còn biết tìm đến rượu để lãng quên thế nhưng cuộc đời đâu để cho bà làm điều ấy.
Mỗi một chén với đi, muốn say mà lại càng tỉnh cũng như ánh trăng kia, sắp tàn mà vẫn khuyết. Cuộc đời con người có mấy mùa xuân, sắp trôi qua những ngày tháng đẹp nhất mà tình duyên vẫn còn lận đận, dở dang.
Với 4 câu thơ đầu này, thủ pháp tương phản đã được khéo léo sử dụng khi so sánh giữa con người cô đơn nhỏ bé giữa không gian rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ, rượu không thể làm con người khuây khỏa, say lại tỉnh,… Tất cả vừa để nhuốm màu tâm trạng của người phụ nữ, vừa để làm nổi bật sự cô đơn, buồn chán đến đau đớn.
Giữa những điều ấy, nhân vật trữ tình ấy vẫn còn đủ tỉnh táo để có được ý thức đúng đắn về hạnh phúc của bản thân, nỗi đau của thân phận của những người phụ nữ khác giữa chế độ phong kiến. Những phản ứng vô cùng quyết liệt và khác biệt được thể hiện ở những câu thơ tiếp theo:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Rêu vốn được biết là loài cây yếu đuối nhỏ bé, và hòn đá chỉ là thứ ù ì vô tri, tưởng chừng chỉ có thể đứng bất động trước các yếu tố ngoại cảnh, trước sự chảy trôi của thời gian. Nhưng không, trong thơ và góc nhìn của Hồ Xuân Hương, chúng lại thể hiện một sức sống mạnh mẽ, khỏe khoắn và đầy độc đáo bởi rêu có thể “xiên ngang mặt đất” mà trỗi dậy tìm sự sống. Và Đá cũng có thể “đâm toạc chân mây” cao vời vợi.
Qua lăng kính đầy màu sắc, chúng cũng tràn trề sức sống như ai. Chúng kết hợp với cụm từ “xiên ngang”, “đâm toạc” như ẩn ý đã cho thấy sự bứt phá, không cam chịu số phận đau khổ, tủi hèn trong thâm tâm của người phụ nữ.
Điều này đi người lại với sự giáo dục dành cho phụ nữ trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, bởi họ luôn bị áp đặt phải cam chịu, nhẫn nhục và an phận thủ thưởng. Câu thơ ánh lên nhiều ý nghĩa vô cùng tích cực và tiến bộ với thời đại. Phụ nữ cũng có những khao khát về tình yêu và hạnh phúc, cũng cần có quyền để được đấu tranh cho những điều mình mong muốn.
Từng ý thơ vô cùng nhất quán với những tác phẩm khác trong chùm thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương, bởi “Thân này đâu đã chịu già tom”. Một tư tưởng tuyệt vời như vậy, thế nhưng cũng vẫn phải chấp nhận thực tế phũ phàng:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Lại là sự ai oán chua xót như ở đầu bài thơ. Trong một bài thơ khác, bà cũng đã từng bộc bạch:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
Tư tưởng có cao đẹp, nhưng với chế độ hà khắc và kìm hãm của xã hội phong kiến thì đâu ai có thể làm khác được. Tuổi xuân của người con gái sẵn vốn ngắn ngủi, xuân “lại lại” đồng nghĩa với thanh xuân người con gái đã ngắn lại càng ngắn thêm, vậy mà mảnh tình cũng phải san sẻ, chia năm sẻ bảy.
Câu thơ với cách dùng từ độc đáo, cho thấy sự nhỏ dần, ít dần của tình duyên: mảnh tình – nhỏ bé, san sẻ - càng ít hơn và cuối cùng phần nhận được chỉ còn lại “tí con con”.
Cách dùng từ mạnh mẽ và độc đáo như chính tính cách của tác giả nhấn mạnh cho độc giả sự nhỏ dần, vơi bớt dần trong tình duyên của chính nhân vật trữ tình. Mảnh tình – nhỏ bé, san sẻ - càng ít hơn, và cuối cùng thứ nhận lại chỉ còn có “tí con con”. Với tất cả vẻ đẹp và sự quý giá từ bề ngoài đến tâm hồn, hóa ra người phụ nữ chỉ xứng đáng được nhận được từng ấy thôi ư?
Bài thơ chỉ với 8 dòng và 56 chữ, thế nhưng bằng khả năng điều khiển ngôn ngữ tài tình, Hồ Xuân Hương đã cho người đọc phần nào thấy được thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Hạnh phúc vốn khó chạm tay đến, ấy vậy mà khi gặp nó lại đã bị chia năm sẻ bảy, chẳng được vẹn nguyên.
Bà vừa bày tỏ nỗi uất ức của mình thông qua nhân vật trữ tình, vừa lên án xã hội phong kiến đã kìm kẹp nhu cầu chính đánh: Mong muốn có một hạnh phúc trong vẹn của con người. Dù xã hội ngày nay chưa thực sự toàn vẹn được những điều mà Hồ Xuân Hương tâm niệm, thế nhưng cũng thật may mắn bởi mọi người đã có ý thức và những thay đổi rõ ràng hơn trong vấn đề này.
Copyright © 2021 HOCTAP247