Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương là bài thơ nói về tâm sự của bà và cũng là tâm sự chung của người phụ nữ thời bấy giờ. Cùng nhau phân tích Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình 2 để hiểu được những tâm trạng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Tâm trạng của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình II
Có một người phụ nữ gọi là “Bà chúa thơ Nôm”, là “thiên tài và kỳ nữ”, Người đã vượt qua tất cả các cuộc tranh luận trong quá khứ, đứng một mình trong làng thơ Việt Nam với một di sản hạn chế nhưng độc đáo. Người phụ nữ đó là Hồ Xuân Hương.
Thế giới không thể quên một người phụ nữ có số phận bất hạnh và nỗi buồn sâu sắc. Thơ Tự tình (II) cũng là một trong những bài thơ thể hiện tâm sự đó:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
...
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Xem thêm:
Tự tình 2: Nội dung bài thơ, hoàn cảnh sáng tác, dàn ý phân tích tác phẩm
"Tự tình II" trong những bài thơ mà Hồ Xuân Hương tiết lộ trực tiếp cái tôi tâm sự của bà trong những cảm xúc trái chiều của chính bà. Bài thơ mở ra với một không gian - thời gian:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Thời gian là đêm khuya, khi mọi thứ đều trong bóng tối. Trong thời gian đó, mọi thứ trở nên yên tĩnh, không gian trở nên hoang vắng đủ để nghe tiếng trống vang vọng từ xa. Đó là một âm thanh cảm giác rất đẹp. Từ "văng vẳng" có nghĩa là nó được vang vọng từ một nơi rất xa xôi, dường như âm thanh của trống chỉ có thể được nghe mờ nhạt với mỗi cơn gió thổi và người nghe phải nghe rất khó nghe.
Nhưng vẫn đủ để nhận ra nhịp đập vội vã của nó. Âm thanh của trống đồng hồ báo hiệu một khoảnh khắc khác của thời gian trôi qua, nó dường như là một cái gì đó để nhắc nhở, một cái gì đó để thúc giục người đã thức. Người thức tỉnh đó là một người phụ nữ.
Trơ cái hồng nhan với nước non
Đêm cô đơn là khi mọi người thường đối mặt với chính mình, có lòng thương xót, tự hỏi mình, nhìn lại bản thân và đó cũng là thời điểm mọi người đúng nhất với bản thân họ. Khi tiếng vang, cuộc sống ban ngày dường như đã lắng xuống, mọi người có thể cảm thấy rõ ràng hơn bước thời gian, bước đi của một cuộc đời.
Thời gian vẫn đang trôi chảy, và nhân vật trữ tình - đây là một người phụ nữ - bị nhấn chìm trong một cảm giác đau buồn. Người phụ nữ biết giá trị của mình: một vẻ đẹp của phận hồng nhan - một người phụ nữ xinh đẹp, tài năng.
Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình 2
Nhưng trong quá khứ, "hồng nhan bạc mệnh", bà càng nhận thức được tính cách và phẩm giá của một người, nó càng trở nên đáng thương và cay đắng. Thúy Kiều, đêm trước khi bán mình để chuộc lỗi cho cha, đã phải đối mặt với chính mình một mình:
Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Hồ Xuân Hương đối mặt với bản thân trong đêm để nhận ra tình huống bi thảm: “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Từ “cái” đặt trước danh từ “hồng nhan” làm cho hai từ này không hợp lệ. Hồng nhan nhưng đó là “cái hồng nhan” ẩn đằng sau một cái gì đó như khinh miệt. Nó không đau đớn như cụm từ “kiếp hồng nhan” hay “phận hồng nhan” nhưng rõ ràng ở đây là sự tự nhận thức của những người trong cuộc.
Vẻ đẹp không có giá trị và chủ sở hữu chỉ có thể chấp nhận nó với sự thương hại. Do đó, bà cũng tự nhận mình chỉ là “cái hồng nhan”. Chưa hết, trước “cái hồng nhan” còn là tính từ “trơ”. Nó là một tính từ cho thấy trạng thái cô đơn, cô độc, bất lực.
Kết hợp với toàn bộ câu thơ, mọi người vẫn cảm thấy có một cái gì đó giống như một sự xấu hổ: Trong không gian yên tĩnh của đêm, khi mọi thứ đang nghỉ ngơi, vẫn còn bà vẫn ngồi đây với rất nhiều đau khổ, rất nhiều lời thú nhận, “trơ cái hồng nhan”.
Xem thêm:
Dàn ý nghị luận văn học tự tình
Nghị luận văn học tự tình Hồ Xuân Hương
Và hơn thế nữa, sự cô đơn, xấu hổ tăng lên khi nó trái ngược với không gian rộng lớn: “nước non”. Tuy nhiên, bên cạnh nỗi đau vẫn là bản lĩnh Xuân Hương. Từ “trơ” cũng có một thách thức trong đó. Nó cũng có ý nghĩa tương tự như trơ trong thơ của Thanh Quan: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Người ngồi đó như thể suy ngẫm về cuộc sống của chính mình, tự hỏi mình và sau đó cũng nhận ra tình huống không may mà bà đang phải đối mặt. Buồn nhưng vẫn tràn đầy bản lĩnh.
Hai câu tiếp theo thêm vào nỗi buồn:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Nếu như trước đây, mọi người có cảm giác chung rằng nhân vật trữ tình đang có cảm xúc và sự cô đơn thì ở đây, mọi người tiếp tục bắt gặp hình ảnh của bà, cũng chứa đựng nhiều suy nghĩ như vậy. Việc tìm thấy một chén rượu để giải trí cho một người đàn ông trong một xã hội phong kiến là điều bình thường, nhưng không phải cho một người phụ nữ.
Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình II
Tuy nhiên, nhân vật nữ trong bài thơ đã trải qua cảm giác đó nhiều lần. Thông thường, mọi người tìm đến rượu khi mọi người cảm thấy đau đớn, thất vọng để nó có thể trở thành liều thuốc an thần cho tâm hồn. Nhân vật trữ tình ở đây cũng làm như vậy, nhưng cuối cùng, vẫn không thể thoát khỏi thực tế đáng buồn của mình.
Nhưng ngày xưa, “hồng nhan bạc mệnh”, tình yêu đã trở thành trò đùa của số phận để làm cho người trong cuộc càng say, càng tỉnh. Giữa con người và mặt trăng có những điểm tương đồng tạo nên sự thật “bóng xế khuyết chưa tròn” ngày càng trở nên đau đớn hơn. Để miêu tả mặt trăng, Hồ Xuân Hương đã sử dụng tối đa ba cụm từ cùng một lúc: bóng, khuyết, chưa tròn. Cả ba từ đều có ý nghĩa để mô tả một mặt trăng không hoàn chỉnh.
Chính tôi còn nhớ số phận tà ác của nữ anh hùng: “Người thơ phong vận như thơ vậy”. Là một người phụ nữ tài năng và dũng cảm, bản thân bà đã rơi vào một trong những bi kịch đau đớn nhất của người phụ nữ. Sau đó, bản thân bà cũng kết hôn hai lần, cả hai lần đều có lý do. Hạnh phúc của một cặp vợ chồng không thể chia sẻ đã được chia sẻ, vì vậy nó không đầy đủ:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
Và ngao ngán:
Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán phận lênh đênh
Chính sự giống nhau này đã làm cho lời thú nhận của nhân vật trữ tình thậm chí còn sâu sắc và ám ảnh hơn. Nhưng một lần nữa, mọi người vẫn gặp phải được bản lĩnh của Xuân Hương trong mọi hoàn cảnh, vẫn kiêu ngạo:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Hai câu thơ mô tả cảnh tự nhiên được cảm nhận thông qua tâm sự và sự oán giận của con người. Người phụ nữ từng chỉ vào “bọn đàn ông” mà khẳng khái:
Tài tử văn nhân đâu đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom
Rêu phải phát triển xiên, phần còn lại là “xiên ngang mặt đất”. Đá đã vững chắc, nó phải trở nên vững chắc hơn để có thể vượt qua số phận “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngược trong hai câu đã làm nổi bật sự phẫn nộ của tình trạng đá và cỏ, đó cũng là sự phẫn nộ của tâm sự.
Xem thêm:
Bình giảng bài thơ Tự Tình- Hồ Xuân Hương
Phân tình hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình
Bên cạnh đó, các động từ mạnh mẽ “xiên”, “đâm” được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo cho thấy sự bướng bỉnh và ngang ngạnh. Sử dụng những từ như vậy cho thấy một phong cách rất Xuân Hương. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Nó đúng như những bi kịch của cuộc đời bà ấy:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Cho dù bà ấy dũng cảm đến đâu, cho dù bà ấy bướng bỉnh đến đâu, không thể tránh khỏi thời gian vẫn đang trôi chảy và bà vẫn còn dang dở. Hồ Xuân Hương chán nản, cuộc sống của bà quá khốn khổ, buồn tẻ, quá nhàm chán.
"Xuân" đó là mùa xuân nhưng cũng là thanh xuân. Mùa xuân xoay quanh thiên nhiên, nhưng tuổi trẻ của con người đã trôi qua, không bao giờ trở lại. Hai từ “lại lại” nghe có vẻ nhàm chán, nó làm cho sự đối lập giữa con người và thiên nhiên lớn hơn và nghịch cảnh trở nên khó khăn hơn..
“Mảnh tình san sẻ tí con con”. Đã là một “mảnh tình” Điều đó có nghĩa là rất ít, nhưng bây giờ nó lại được “san sẻ” đến nỗi cuối cùng chỉ là “tí con con”. Điều đó đối với một người bình thường đã rất ít, càng khó chấp nhận một người khao khát tình cảm như Hồ Xuân Hương.
Xem thêm:
Hình ảnh người phụ nữ qua bài Tự Tình và Thương vợ
Copyright © 2021 HOCTAP247