Hướng dẫn soạn bài Tự tình lớp 11 - Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm của nền văn học Việt Nam. Tự tình là một tác phẩm nổi tiếng nói về nỗi lòng của người phụ nữ khi suy nghĩ về con đường tình duyên của mình. để hiểu rõ về tác phẩm hơn mời các bạn cùng tham khảo bài soạn văn tự tình lớp 11!
Hồ Xuân Hương (?-?) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Có tài liệu ghi bà là con Hồ Phi Diễn (1704 -?), song cũng có tài liệu nói bà là con Hồ Sĩ Danh (1706 - 1783). Thân sinh Hồ Xuân Hương lấy vợ lẽ người Bắc Ninh, sinh ra bà. Gia đình bà có thời sống ở Thăng Long. Khi trưởng thành, nữ sĩ có một ngôi nhà riêng ở gần Hồ Tây - Hà Nội lấy tên là cổ Nguyệt đường. Bà đi nhiều nơi và thân thiết với nhiều danh sĩ, có người nổi tiếng như Nguyễn Du nhưng cuộc đời, tình duyên của bà có nhiều éo le, ngang trái.
Sáng tác của Hồ Xuân Hương gồm cả thơ chữ Nôm và chữ Hán nhưng được biết đến nhiều hơn là thơ chữ Nôm. Phần tiếp theo chúng tôi sẽ giới thiệu với các bạn cách soạn bài Tự tình Ngữ văn lớp 11.
Tự tình (bài II) nằm trong chùm thơ Tự tình gồm ba bài của Hồ Xuân Hương. Đây là những xúc cảm chân thực mang nét rất riêng của một nữ sĩ tài năng mà tình duyên lại có nhiều éo le, ngang trái. Chẳng thế mà bà đã làm đến ba bài thơ Tự tình cho riêng mình. SGK chọn bài Tự tình II là bài thơ có nhiều nét tiêu biểu cho chùm thơ Tự tình cua bà.
Chúng ta sẽ phân tích tác phẩm theo trình tự kết cấu một bài thơ Đường luật gồm 4 phần: Đề, thực, luận, kết.
Tham khảo:
1. Hai câu đề
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Thông thường, giữa không gian rợn ngợp con người cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn. Ở đây, Xuân Hương lại cảm nhận sự cô đơn trước thời gian, bởi trong bước đi của thời gian còn chứa đựng sự phá hủy. So với câu thơ đầu bài Tự tình II: “Tiếng gà văng vắng gáy trên bom” thì câu đầu bài Tự tình II buồn hơn: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”. Tiếng trống canh dồn văng vẳng trong đêm khuya vừa thể
hiện bước đi dồn dập của thời gian vừa bộc lộ sự rối bời của tâm trạng người phụ nữ trong nỗi cô đơn trống vắng một mình. Nữ sĩ cảm thấy xót xa, bẽ bàng cho duyên phận éo le, ngang trái:
Trơ cái hồng nhan với nước non
Có thế xem đây là một câu thơ rất Hồ Xuân Hương. Trong câu thơ có cả nỗi đau và bản lĩnh của người nữ sĩ. Trơ cái hồng nhan là nỗi đau Xuân Hương, nhưng Trơ cái hồng nhan / với nước non thì lại là bản lĩnh Xuân Hương. Một nỗi đau bẽ bàng, tủi hổ của người con gái khi duyên tình không đến, duyên phận không thành được bộc lộ trong một chữ “trơ” đầy ấn tượng với nghệ thuật đảo ngữ nhằm nhấn mạnh ý, và cả từ “cái” khiến cho hồng nhan thêm rẻ rúng mỉa mai. Trong Truyện Kiều cũng có một chữ “trơ” như thế: Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ. Nhưng “Trơ cái hồng nhan” không phải với gia đình, bạn bò, làng xóm mà Trơ cái hồng nhan / với nước non thì đó là cả một sự thách thức, thách đố của người con gái. Nó giống chữ “trơ” trong câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt đều nói lên bản lĩnh của người phụ nữ trước cuộc đời. Và Hồ Xuân Hương chính là một con người như vậy.
2. Hai câu thực
Hai câu thực nói rõ hơn thực cảnh và thực tình Hồ Xuân Hương. Thi nhân ngồi một mình trong cô đơn đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh, càng thấm thía duyên phận của mình, ở đây, ngoại cảnh cũng là tâm cảnh, trăng với người đồng nhất với nhau, dùng hình ảnh trăng để nói lên nỗi lòng người. Trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn “khuyết chưa tròn” chính là tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Còn hương rượu chính là hương tình đề lại vị đắng chát khiến cho con người “say lại tỉnh” trong phận hẩm duyên ôi. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng thấm thìa nỗi đau.
3. Hai câu luận
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Từ nỗi đau trong hai câu thực mà phát triển một cách tự nhiên thành nỗi phẫn uất trong hai câu luận. Con người nói chung là thế, Hồ Xuân Hương lại càng như thế. Ở trên, nhà thơ đã gửi nỗi đau duyên phận vào vầng trăng và chén rượu, thì ở đây, nữ sĩ cũng nhờ thiên nhiên nói lên niềm phẫn uất của mình, và thiên nhiên như cũng đồng cảm với con người, cần chú ý nghệ thuật đảo ngữ (xiên ngang và đâm toạc được đặt lên đầu câu để nhấn mạnh ý) và nghệ thuật đối lập trong câu thơ:
Rêu —> xiên ngang mặt đất
Đá —> đâm toạc chân mây.
Rêu mềm yếu là thế mà vẫn xiên ngang mặt đất, đá có nhọn gì đâu, lại ở dưới mặt đất, làm sao có thể đâm toạc chân mây được? Mới biết nỗi phẫn uất ở đây là mạnh mẽ, to lớn: rêu, đá như vạch đất, vạch trời mà hờn oán, không chỉ ]à phẫn uất mà còn là phản kháng. Bởi đây là nỗi phẫn uất của số phận, khát vọng của con người - mà lại là một con người đầy bản lĩnh như Xuân Hương.
4. Hai câu kết
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Nhưng rồi chính con người ấy lại vẫn rơi vào bi kịch của duyên phận, và hai câu kết đã bộc lộ rõ tâm trạng chán chường, buồn tủi của nhà thơ. Hồ Xuân Hương “ngán” lắm rồi cái nỗi đời éo le, bạc bẽo, cái vòng quay luẩn quấn “xuân đi xuân lại lại” của tạo hóa. Từ “xuân” mang hai nghĩa (mùa xuân và tuổi xuân), từ “lại” cũng mang hai nghĩa (thèm lần nữa và trở lại) khiến cho câu thơ đa nghĩa, thâm thía, tâm trạng chán chường càng lộ rõ, bởi sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Chính vì thế mà càng xót xa, tội nghiệp khi:
Mảnh tình - san sẻ - tí - con con!
Nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ, chỉ còn một tí, mà là một tí - con con thì thật đau xót. Ớ đây, mảnh tình càng bé lại thì nỗi đau càng tăng thêm, đọng lại một dư vị và dư vang sâu lắng, xót xa về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa với duyên tình hẩm hiu, cay đắng của mình.
Và có phải, vừa đau xót vừa thách thức duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch, cả hai điều ấy đã làm cho ý nghĩa nhân văn của bài thơ Tự tình II sâu sắc hơn, thấm thìa hơn? Đó là tiếng lòng chân thực, cũng là nét riêng độc đáo trong thơ trữ tình của Bà chúa thơ Nôm.
Với bài tập trong SGK, các em cần đọc nhiều lần bài thơ Tự tình I, suy nghĩ để so sánh với bài Tự tình II đã học. Sau đây là một số gợi ý:
- Sự giống nhau của hai bài thơ: tác giả tự nói lên nỗi lòng mình với hai tâm trạng: buồn tủi, xót xa và phẫn uất trước duyên phận.
Cả hai bài thơ đều cho thấy tài năng sử dụng tiếng Việt của Hồ Xuân Hương: nữ sĩ có tài năng đặc biệt khi sử dụng các từ làm định ngữ hoặc bổ ngữ: xiên ngang, đâm toạc (bài Tự tình II); mõ thảm, chuông sầu, tiếng rền rĩ, duyên mõm mòm, già tom (bài Tự tình I). Hồ Xuân Hương cũng rất thành công khi sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ như đảo ngữ, tăng tiến, đối (dẫn chứng qua từng bài thơ).
- Sự khác nhau của hai bài thơ: Ở Tự tình I yếu tố phản kháng, thách đố duyên phận mạnh mẽ hơn. Điều này cho phép giả định Tự tình I được viết trước và được viết khi tác giả còn trẻ hơn lúc viết Tự tình II.
Trên đây là toàn bộ kiến thức chúng tôi muốn chia sẻ về soạn văn bài Tự tình, cùng học vui chúc các bạn đạt được điểm số cao!
Copyright © 2021 HOCTAP247