BÀI LÀM
Chế Lan Viên đã từng ví Hàn Mặc Tử với ngôi sao chổi xoẹt ngang bầu trời thật có lí. Có lí bởi sao chổi vừa kì lạ, vừa hiếm hoi. Vậy Hàn Mặc Tử và Đây Thôn Vĩ Dạ thực sự kì lạ, hiếm hoi như ngôi sao chổi kia?
Mở đầu bài thơ là câu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Lời thơ khởi dòng thi tứ tương tự sự biến tấu tình cảm trong lời thư của người thôn Vĩ, như muôn khẳng định việc thăm hỏi ân cần ấy không phải trong mơ mà có thật; và như thế, đồng thời cũng để bản thân được nhấm nháp thứ tiên dược không những đối với bản thân còn cả cho tâm bệnh nan y. Tiếp đó, lời thơ đã từ từ gọi thức những hình bóng thôn Vĩ ngày xưa - thời người thơ là cậu học trò Trung học Pellerin Huế:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Tờ thư tiên của tâm lòng son thôn Vĩ quả đã có tác dụng nhiệm màu đối với người bệnh: sinh lực hồi sinh; do đó đất trời đã mở ra tràn đầy sức sống: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên, và cảnh trí xuất hiện đẹp tươi như thơ: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc . Về từ pháp mà nói, chữ mướt thật rất Hàn Mặc Tử; và khi so sánh xanh như ngọc thì rõ ràng thì trung hữu hoạ, mà đây là bút pháp của một doanh hoạ trường phái ấn tượng, nhãn lực tinh tường và trái tim đa cảm. Rồi không rõ từ nơi đâu trong kí ức trở về một bức chân đung có bố cục hẳn hoi ở xóm thôn Vĩ Dạ: Là trúc che ngang mặt chữ điền... Một đặc điểm thơ Hàn Mặc Tử là phong cảnh hiện ra trong một số bài rất đậm đà màu sắc dân tộc. Không gắn bó máu thịt với quê hương xứ sở, khó có thể viết được những câu thơ như trong khổ đầu của Đây thôn Vĩ Dạ vừa rồi, và những câu hoặc ngọt lịm giai điệu dân ca (Tình quê) hoặc đầm ấm sắc màu tranh dân dã (Mùa xuân chín)...
Nhưng hỡi ôi? Niềm vui quá ngắn trước vẻ đẹp của tình người (Sao anh không về...) và của cảnh đời (Vườn ai mướt quá...) Nghĩ đến cái hố ngăn cách giữa thân phận mình với người thôn Vĩ mà giờ đây hẳn càng sâu rộng hơn, thi tứ Hàn Mặc Tử vụt bay đến một cõi niềm đau thương đối lập: Gió theo lối gió, mây đường mây... - có nghĩa rồi đây hết tất? Sẽ không tránh khỏi chia lìa và vĩnh biệt. Cái tôi chuyển tứ rất nhanh có khi rất xa, cũng là một đặc biệt của thơ Hàn Mặc Tử, và khi Những đột xuất ấy lặp lại với tần số cao sẽ tạo nên sự khó hiểu (Vũ Quần Phương). Càng ở những tác phẩm cuối đời (Xuân như ý; Thượng thanh khí), thơ Hàn Mặc Tử càng thể hiện rõ đặc điểm này. Chúng ta sẽ không lạ lùng điều ấy khi nhớ lại rằng: thơ Hàn Mặc Tử trong khoảng hơn 10 năm đã đi từ đời Đường đến chủ nghĩa tượng trưng. Ngay tập từ Thơ điên, trong đó bài Đây thôn Vĩ Dụ, yếu tố tượng trưng đã thấp thoáng xuất hiện. Câu thơ thôn Vĩ phảng phất bút pháp của trường phái ấy không phải không gây thêm đôi chút rắc rối khó hiểu nữa đối với độc eiâ.
Do trực cảm mốì quan hệ giữa bản thân với Hoàng Cúc (có lẽ cũng là với không ít người thân thiết khác) trước sau sẽ là gió - mây đôi ngả, nên trước mắt nhà thơ: nắng mới buồn thiu, hoa bắp bay lại cũng là một hình tượng thơ xuất hiện đột ngột theo kiểu quen thuộc trong thi pháp Hàn Mặc Tử - mặc dầu về có thể cho rằng: nghĩ về Vĩ Dạ là nhớ đến cồn Hến giữa sông Hương đối diện Vĩ Dạ, trên cồn trồng nhiều vạt bắp với vùng hoa ngút ngát lay động theo gió... Mong lòng khuây phần nào mối sầu gió - mây đôi ngả, nhà thơ ngóng đợi một bạn cô tri có vẻ đẹp huyền ảo: Trăng Vàng Trăng Ngọc. Nhưng liệu bạn cố tri vô cùng thân thiết ấy có về kịp không?... Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay mà cứu rỗi linh hồn bất hạnh này không? - Kết thúc khổ thơ hai là một tín hiệu mong chờ cứu nạn, nhưng lời khẩn cầu đồng thời lại đã chứa đựng niềm hồ nghi hiệu quả.
Khổ thơ ba xuất hiện theo cũng không hoàn toàn rõ mạch. Đọc thơ Hàn Mặc Tử nhiểu khi như xem tranh đồng hiện: sự vật, sự thể ở những thời gian không gian xa các nhau đồng loạt xuất hiện và xâm nhập lẫn nhau không quan tâm luận lí - tính luận lí ở đây chỉ tồn tại trong tinh thần khối dòng tâm tưởng. Đọc Hàn Mạc Tử, người ta cũng dễ liên tưởng đến thơ Lamactin: thứ thơ vừa lãng mạn vừa chứa đựng mầm mống của chủ nghĩa tượng trưng, nhiều lúc ngẫu phát: coi lòng nhà thơ có khi như chìm đắm vào một cõi mù sương, bởi vậy, cảnh trí ngoại giới được tái hiện chỉ có tính chất như những âm thanh của tâm hồn phản ứng khi va chạm với sự vật - đó là kiểu thơ phong cảnh nội tâm... Tương tự như vậy: Mơ khách đường xa là mơ ai? Theo mạch thơ và dựa vào ý tưởng trong nội dung thơ Hoàng Cúc gửi Hàn Mặc Tử, người mơ hẳn đang sống ở Vĩ Dạ, nhưng cũng không loại trừ ý nghĩa là chủ thể lãng mạn cùng; mơ theo... Và rồi: áo em trắng quá (màu áo trắng trong bức tranh Hoàng Cúc gửi Hàn Mặc Tử?) có nghĩa: tâm hồn em thánh thiện quá, hạnh phúc đến đột ngột quá..., ta say men sắc màu trinh trắng đến choáng váng nhìn không ra? Hay chỉ hàm nghĩa là: những nét chữ từ thôn Vĩ gửi về Quy Nhơn đã làm thức dậy hình bóng xa xôi một nữ sinh Đồng Khánh thuở nào...Đến câu tiếp theo, đôi cánh thơ với phong độ mơ màng quen thuộc vẫn như còn tiếp tục bay lượn kiếm tìm cái đẹp ở miền đất Thần sương khói mịt mờ - miền đất có:
Dòng Tiêu kim thuỷ gà xao xác
Ngẩng thấy kinh kì khói vấn vương.
(Văn Cao - Một đêm đàn lạnh trên sông Huế)
Cuối cùng, nếu ở khổ thơ hai, nhà thơ vừa muốn nhờ Trăng Vàng Trăng Mgọc làm tan biến nỗi sầu thương, vừa âu lo ước nguyện không thành:
Ai biết tình ai có đậm đà
Bên cạnh hương sắc quê xứ Việt, phải chăng tỉ trọng chủ yếu trong khối thi tứ Đây thôn Vĩ Dạ có ý nghĩa là lín hiệu thẩm mĩ chứa đựng ý nguyên được cửu rạn - những tín hiệu tuy đứt nối mơ hồ mà thiết tha thấm thìa của một linh hồn bất hạnh - Chuỗi tín hiệu cầu cứu ấy gián tiếp khuyến thiện: cộng đồng con người hãy vị tha và chung thuỷ; nhất là đốì với những thân phận bi kịch đã không nén nổi lời rên xiết:
Trời ơi? Nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phũ phùng.
(Lang thang)
Copyright © 2021 HOCTAP247