… Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống S...

Câu hỏi :

… Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.

* Đáp án

* Hướng dẫn giải

a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận.

-  Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài.

- Mở bài nêu được vấn đề; Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài kết luận được vấn đề.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp trữ tình của hình tượng sông Đà qua đoạn trích: “… Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần…rồi chốc lại bắn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy…”

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:

1.    Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích…

2. Nội dung

a.    Đoạn văn thứ nhất: … Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần… rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”: Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà nhìn từ trên cao xuống.

-   Sông Đà hiện lên với đường nét, tính cách mang linh hồn của một con người: Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hàng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “núi cao sông hãy còn dài – năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.

-   Sông Đà xinh đẹp như một người con gái kiều diễm: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”.

-       Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô”. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.”

b.    Đoạn văn thứ hai: “Con Sông Đà gợi cảm…. rồi chốc lại bắn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”: Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà ở góc quan sát gần.

-       Sông Đà “gợi cảm” như một “cố nhân”.

-       Tác giả nhìn thấy nắng trên sông Đà “loang loáng” như “trẻ con cầm gương chiếu vào mắt người lớn rồi bỏ chạy”.

-       Nhà văn say đắm liên tưởng: miếng sáng ấy trên sông lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.

-       Dòng sông ấy sức sống đang dạt dào với “bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”.

-       Niềm vui của tác giả khi gặp lại con sông: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”; nó “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, một tri âm với bao kỷ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại, bao chung thủy trong tương lai đến, một cố nhân trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn đến lạ kỳ.

3. Nghệ thuật: Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân hóa, miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả... Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.

4. Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

         - Phong cách nghệ thuật:  độc đáo, tài hoa, uyên bác của một nghệ sĩ suốt đời đi kiếm tìm cái đẹp: Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật ở phương diện thẩm mỹ; Nguyễn Tuân luôn đi tìm cảm hứng mạnh trong sáng tạo nghệ thuật: Tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt, những ấn tượng đậm nét.

– Nét tài hoa, uyên bác: Ngôn ngữ phong phú, giàu chất hội họa: diễn tả được mọi sắc thái, mọi cung bậc, hình thù, màu sắc của sông Đà. Nguyễn Tuân là “bậc thầy của ngôn từ”” người làm xiếc trên ngôn từ”… Vận dụng kiến thức nhiều bộ môn.

d. Sáng tạo: Sử dụng ngôn ngữ theo cách thức riêng của bản thân để bàn luận vấn đề và thể hiện suy nghĩ sâu sắc mới mẻ.

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đúng qui tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm dưới đây !

Bộ 30 đề minh họa THPT Quốc gia môn Văn năm 2022 !!

Số câu hỏi: 162

Copyright © 2021 HOCTAP247