Soạn bài: Viếng lăng bác

Lý thuyết Bài tập

Tóm tắt bài

(Viễn Phương)

Bố cục:

   - Khổ thơ 1: Niềm xúc động của nhà thơ khi đặt chân đến lăng Bác.

   - Khổ thơ 2: Cảm xúc của nhà thơ về vẻ đẹp lớn lao, cao cả của Bác khi hòa vào dòng người viếng lăng Bác.

   - Khổ thơ 3: Niềm xót xa vô hạn khi nhìn thấy hình ảnh Bác nằm trong lăng.

   - Khổ thơ 4: Sự lưu luyến nhớ mong khi phải chia tay Bác và mong muốn được mãi ở cạnh Người của nhà thơ.

Câu 1:

Cảm xúc bao trùm trong bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả vào lăng viếng Bác. Giọng điệu trong bài thơ là giọng thành kính, trang nghiêm trong những suy tư trầm lắng.

Cảm xúc đó được thể hiện theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác. Mở đầu là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tiếp đó là cảm xúc trước hình ảnh dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác. Nỗi xúc động thiêng liêng khi vào lăng được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Trong khổ thơ cuối, tác giả thể hiện niềm mong ước thiết tha muốn tấm lòng mình mãi mãi ở lại bên lăng Bác.

Câu 2:

Hàng tre là hình ảnh đầu tiên được tác giả miêu tả trong bài thơ. Đây là hình ảnh thực nhưng đồng thời cũng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đó là hình ảnh thân thuộc của làng quê, của đất nước Việt Nam, một biểu tượng của dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất, bền bỉ. Cuối bài thơ, hình ảnh hàng tre còn được lặp lại với ý nghĩa cây tre trung hiếu. Đó cũng là một phẩm chất tiêu biểu của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Cách kết cấu như vậy gọi là kết cấu đầu cuối tương ứng, làm đậm nét hình ảnh, gây ấn tượng sâu sắc và cảm xúc được nâng cao lên.

Câu 3:

Tình cảm của nhà thơ, của mọi người đối với Bác đã được thể hiện qua sự kết hợp giữa những hình ảnh thực với những ẩn dụ đặc sắc:

Hình ảnh mặt trời trong câu thơ thứ hai vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ vừa thể hiện được sự thành kính của nhà thơ và của cả dân tộc đối với Bác.

Đến hai câu tiếp theo, hình ảnh "dòng người đi trong thương nhớ" là thực nhưng "Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân" lại là một ẩn dụ đẹp và rất sáng tạo, thể hiện sâu sắc những tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhân dân đối với Bác.

Đến khổ thứ ba, dòng người đang yên lặng đi qua linh cữu Bác trong nỗi nhớ thương và xót xa vô hạn. Không khí tĩnh lặng, khung cảnh yên tĩnh nơi đây đã khiến cho ngay cả hình ảnh thơ cũng thay đổi:

Hình ảnh mặt trời rực đỏ trong lăng đã được thay bằng vầng trăng "sáng dịu hiền". Sự thay đổi ấy thể hiện rất nhiều ý nghĩa. Bác không chỉ là một người chiến sĩ cách mạng, là ngọn đuốc sáng soi đường cho dân tộc (ý nghĩa biểu tượng từ mặt trời), Bác còn là một người Cha có "đôi mắt Mẹ hiền sao!". Hình ảnh vầng trăng còn gợi ta nhớ đến những bài thơ tràn ngập ánh trăng của Người.

Đến hai câu thơ sau, mạch xúc cảm ấy đã được bộc lộ trực tiếp:

Đây là những câu thơ hết sức chân thành, mãnh liệt. Tình cảm mãnh liệt của tác giả đã khiến cho câu thơ vượt lên trên ý nghĩa biểu tượng thông thường, đồng thời tạo nên một mạch liên kết ngầm bên trong. Hình ảnh Bác được ví với mặt trời rực rỡ, với mặt trăng dịu mát, êm đềm và với cả trời xanh vĩnh cửu. Đó đều là những vật thể có ý nghĩa trường tồn gần như là vĩnh viễn nếu so với đời sống của mỗi cá nhân con người. Mặc dù vậy, tác giả vẫn thốt lên: "Mà sao nghe nhói ở trong tim".

Đó là lời giãi bày rất thực, xuất phát từ những tình cảm mãnh liệt của nhân dân, đồng bào đối với Bác. Thông thường, trong những hoàn cảnh tương tự, việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ là một thủ pháp nhằm giảm nhẹ nỗi đau tinh thần. Mặc dù vậy, tác giả thốt lên: "Mà sao nghe nhói ở trong tim". Dường như nỗi đau quá lớn khiến cho những hình ảnh ẩn dụ trở nên không còn ý nghĩa, chỉ có cách diễn tả trực tiếp tâm trạng mới có thể giúp nhà thơ giãi bày tình cảm của mình.

Khổ thơ cuối thể hiện ước nguyện của nhà thơ được mãi mãi ở bên Bác. Đã đến giờ phút phải chia tay, tác giả chỉ có thể biểu hiện tấm lòng mình bằng ước muốn hoá thân vào những cảnh vật, sự vật ở bên Bác: muốn làm con chim cất cao tiếng hót, muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây, và nhất là muốn làm cây tre trung hiếu để có thể mãi mãi ở bên Bác.

Câu 4:

Giọng điệu trong bài thơ thể hiện rất nhiều tâm trạng: đó là giọng điệu vừa trang nghiêm, sâu lắng vừa xót xa, tha thiết lại chan chứa niềm tin và lòng tự hào, thể hiện đúng những tâm trạng bộn bề của bao người khi vào lăng viếng Bác.

Bài thơ sử dụng thể 8 chữ là chủ yếu nhưng có những câu 7 chữ hoặc 9 chữ. Nhịp điệu trong thơ chậm rãi, khoan thai, diễn tả khá sát hình ảnh đoàn người đang nối nhau vào cõi thiêng liêng để được viếng Bác, để được nghiêng mình thành kính trước vong linh của một người Cha nhưng cũng đồng thời là một vị anh hùng dân tộc.

Hình ảnh thơ trong bài rất sáng tạo, vừa cụ thể, xác thực vừa giàu ý nghĩa biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ như hàng tre, mặt trời, vầng trăng, trời xanh... tuy đã rất quen thuộc nhưng khi đi vào bài thơ này đã thể hiện được những ý nghĩa rất mới mẻ, có sức khái quát cao đồng thời cũng chan chứa tình cảm của tác giả, của đồng bào miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung đối với Bác.

Câu 1 (trang 60 SGK): Học thuộc lòng bài thơ

Câu 2 (trang 60 SGK): Viết một đoạn văn bình khổ 2 hoặc khổ 3 của bài thơ.

Khổ 2:

    Khổ thơ thứ hai là dòng cảm xúc của nhà thơ về vả đẹp lớn lao của Bác khi được hòa vào dòng người viếng lăng Bác. Ở đây ta thấy hình ảnh mặt trời được lặp lại hai lần với những ý nghĩa khác nhau. Mặt trời ở câu thơ đầu tiên là hình ảnh mặt trời thực của thiên nhiên, mang lại ánh sáng, sưởi ấm và đem đến sự sống cho muôn loài. Mặt trời ở câu thơ thứ hai là một hình ảnh ẩn dụ, mặt trời ở đây chính là Bác. Bằng việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ này, nhà thơ đã ngợi ca vẻ đẹp của vị cha già dân tộc. Người như ánh mặt trời đem tình thương cho đồng bào, nhân dân Việt Nam. Người là ánh sáng soi đường cho hàng triệu người con của đất nước. Bác chính là cội nguồn sự sống của đất nước. Hình ảnh dòng người ngày ngày “đi trong thương nhớ”, “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” thể hiện niềm kính trọng, yêu mến của người dân Việt Nam đối với người cha vĩ đại của dân tộc. Đó cũng chính là tình cảm sâu sắc, chân thành mà tác giả dành cho Bác.

Khổ 3:

    Nếu khổ thơ thứ hai là tình cảm biết ơn, kính trọng thì đến khổ thơ thứ ba, tác giả bày tỏ nỗi xót thương vô hạn đối với sự ra đi của Bác. “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”, tác giả Viễn Phương đã so sánh Bác với “trời xanh” vĩnh hẵng, bất biến. Dù Bác đã ra đi nhưng vẫn còn sống mãi trong trái tim, trong sự nhớ thương của nhân dân Việt Nam ngàn đời. Tình yêu thương bao la, ơn đức lớn lao của Bác sẽ không bao giờ nguôi ngoai trong lòng những thế hệ người Việt. Người đã rời xa trần thế nhưng hình ảnh người vẫn gần gũi như là bác, là cha của những người cháu, người con, đầy “dịu hiền”. Nhưng dẫu biết là như thế, khi nhìn thấy hình ảnh Bác “nằm trong giấc ngủ bình yên” tác giả vẫn không thể che giấu cảm xúc xót thương vô hạn đối với sự mất mát lớn này. Ở cuối khổ thơ, câu thơ “Mà sao nghe nhói ở trong tim!” kết lại bài thơ bằng việc bộc lộ trực tiếp cảm xúc trữ tình. Dấu chấm than đặt cuối khổ thơ như nốt lặng, bày tỏ tình cảm của nhà thơ đối với Bác.

    - Về nội dung: Qua bài thơ, học sinh cảm nhận được tấm lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.

    - Về nghệ thuật: Học sinh phân tích được những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ như: giọng điệu trang trọng và tha thiết, hình ảnh ẩn dụ đẹp, có tình biểu tượng cao cùng với hệ thống ngôn từ bình dị mà cô đọng, hàm súc.

Copyright © 2021 HOCTAP247