Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm quan trọng trong chương trình Ngữ văn lớp 12. Sau đây, CUNGHOCVUI sẽ mang đến cho các bạn bài Phân tích Vợ nhặt, hy vọng đây sẽ là một trong các bài phân tích hay nhất dành cho các bạn!
Bài làm
Kim Lân là một nhà văn am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông dân và nông thôn. Ông hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân với truyện ngắn nổi tiếng mang tên "Làng". Không chỉ vậy, nhà văn còn được biết đến với truyện ngắn Vợ nhặt. Đây là câu chuyện về bức tranh cuộc sống của người nông dân trong nạn đói kinh hoàng của cả dân tộc. Nếu truyện ngắn Làng chỉ khắc họa tình cảm sâu sắc của nhân vật ông Hai với làng của mình thì Vợ nhặt lại là một câu chuyện sâu sắc hơn, để lại những dư âm sâu lắng trong lòng người đọc trước tình người cao cả mà con người dành cho nhau trong hoàn cảnh khó khăn nhất, đớn đau nhất.
Vợ nhặt được sáng tác sau Cách mạng tháng tám, có tiền thân là tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" nhưng bị thất lạc bản thảo. Sau này, Kim Lân viết lại dựa vào một phần truyện cũ và in trong tập "Con chó xấu xí". Tác phẩm là bức tranh hiện thực sâu sắc về nạn đói năm 1945 và số phận của những con người trong hoàn cảnh đó, qua đó cho thấy khát vọng sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc của con người đồng thời tố cáo tội ác của bọn thực dân làm cho dân tộc ta phải khổ sở, điêu đứng.
Câu chuyện được đặt với nhan đề rất độc đáo: "Vợ nhặt", cũng là tình huống truyện được tác giả đặt ra. Từ "nhặt" vốn là một động từ để chỉ hoạt động nhặt nhạnh, một hành động tương đối ngẫu nhiên mà không hề toan tính trước. Hơn thế nữa, người ta lại thường nhặt những gì đó rơi vãi trên đường, như là nhặt lại những thứ bị bỏ rơi, bị đánh mất hoặc thậm chí là vứt đi. Ấy vậy mà truyện ngắn lại được đặt ra với tình huống "nhặt vợ" - một tình huống truyện éo le, bi hài. Cưới vợ là chuyện hệ trọng của cuộc đời, vậy mà ở nạn đói năm 1945, mạng người lại rẻ rúng đến mức người ta có thể nhặt một cô vợ về mà không cần thủ tục, cưới xin. Hình ảnh nhân vật thị được Tràng đưa về nhà trong một buổi chiều trước bao ánh mắt của người dân xóm ngụ cư bắt đầu mở ra câu chuyện mà nhà văn muốn truyền tải.
Hoàn cảnh mà nhân vật chính của truyện xuất hiện là một nơi u ám, "người chết như ngả dạ, không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết". Tác giả vẽ ra một không gian ngột ngạt - nơi nạn đói đã giết chết hàng triệu người. Ở đó, xác người nhiều đến nỗi được so sánh như rơm, như rạ, không một ai dọn dẹp khiến cho mùi thối bốc lên nồng nặc, còn những người sống thì chẳng khác nào một oan hồn "người sống chỉ còn dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma". Cái đói đã chiếm lấy toàn bộ không gian, chiếm lấy cả mạng sống của con người. Người chết thì đã chết rồi, nhưng người sống cũng chẳng khác người chết, có những người chỉ chờ đợi cái chết đến thật nhanh để được giải thoát khỏi nỗi khổ đau này. Trong bức tranh hiện thực thảm hại ấy, Tràng xuất hiện với hình ảnh "Hai con mắt gà gà đắm vào bóng chiều, bộ mặt thô kệch" cùng với "cái đầu trọc nhẵn" và "cái lưng to rộng". Nhà văn miêu tả nhân vật Tràng bằng vài nét rất sơ sài, ta có thể thấy được sự túng quẫn, tiều tụy thông qua gương mặt của con người ấy. Kim Lân chỉ miêu tả Tràng ít ỏi như vậy bởi lẽ ông muốn nhấn mạnh, ở cái hoàn cảnh đói khổ tột cùng này, con người ta không còn quan tâm đến dáng vẻ, đến bề ngoài của mình nữa.
Anh cu Tràng chỉ là một người nông dân nghèo khổ, đi đẩy xe bò thuê, sống với mẹ trong "cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại". Sống qua ngày còn chẳng đủ ăn, ấy vậy mà khi gặp một người đàn bà lạ, Tràng sẵn sàng rộng lượng cho người đàn bà đói khát ăn "một chập bốn bát bánh đúc". Ở đây, ta thấy được lòng yêu thương con người sâu sắc của nhân vật Tràng. Khi người vợ nhặt đòi theo Tràng về nhà, Tràng cũng không từ chối. Bởi lẽ, chàng thấy thương người đàn bà này, muốn cưu mang thị chứ không phải có ý định tìm vợ ngay từ đầu. Chính vì xuất phát từ tình thương nên Tràng không hề quan tâm, xét nét đến ngoại hình của người vợ. Khi đi cạnh thị, mặc cho bọn trẻ con trêu "Chông vợ hài" và trông thị thì chẳng khác nào mới chui từ một chỗ thảm hại đi ra "quần áo rách như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt", Tràng vẫn phớn phở, thích chí lắm. Có được vợ, anh cu Tràng từ một người khù khờ, vô tư bỗng nhiên biết suy nghĩ, lo lắng cho sau này: "Đến giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra là hắn đã có vợ rồi đấy ư?" Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao, hắn "tự dưng thấy yêu cái nhà của hắn lạ lùng". Trong hoàn cảnh đói kém, khi người ta còn chẳng lo nghĩ đến điều gì ngoài cái ăn, ngoài sự đói kém khổ cực thì Tràng đây lại có hẳn được một cô vợ chăm lo cho hắn sau này, có được niềm hạnh phúc mà đối với hắn là quá đỗi bất ngờ. Cuộc đời Tràng đã bước sang một trang khác, một bước ngoặt mới.
Có vợ, Tràng trở nên vui tươi, hạnh phúc: "Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà" bởi "hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này". Những chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật Tràng, từ buồn bã, vô sắc thái như người chết đến vui tươi, hồ hởi muốn làm việc giúp đỡ thị cho thấy niềm hạnh phúc, tình cảm gia đình đã cứu cánh cho con người ta khỏi hiện thực khổ đau nhiều đến như thế nào. Tình người có thể làm thức dậy ở con người ta một trái tim, một tâm hồn tưởng như đã chết. Ở phần cuối truyện, suy nghĩ của Tràng còn được tác giả gửi gắm cái nhìn về sự thay đổi của xã hội mà các tác phẩm khác cùng thời kì chưa có được. Đó là hình ảnh "Trong óc Tràng vẫn thấy hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới". Lá cờ đó là hiện thân của lí tưởng cách mạng, là con đường để thay đổi hiện thực mà Tràng cần đi theo, tác giả muốn nhắn nhủ rằng hiện thực xã hội sớm muộn gì cũng sẽ thay đổi, đó là thứ hy vọng le lói mà Kim Lân muốn gửi gắm qua nhân vật. Thông qua đó, ta thấy được giá trị hiện thực của tác phẩm cùng với lòng yêu thương con người sâu sắc của tác giả.
Còn thị - vợ của Tràng - là một người đàn bà không rõ lai lịch, không có nhà cửa, thậm chí còn chẳng có tên. Nhà văn vẫn với ý đồ như vậy, ông muốn nhấn mạnh đến cái nạn đói đã khiến số phận con người trở nên rẻ rúm, đến cái tên cũng không có, cũng không còn quan trọng với thị nữa rồi. Khi mới gặp Tràng, thị là một người đàn bà đanh đá, chua ngoa và có phần trơ trẽn. Ngồi vêu ra nhặt hạt rơi, hạt vãi trước cửa liên đoàn cùng các cô ả khác, thị đã nhanh chóng lon ton lại gần đẩy xe cho Tràng chỉ qua một câu hò vu vơ lúc mệt nhọc:
"Muốn ăn cơm trắng với giò này,
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì"
Có lẽ cái đói đã khiến cho thị không còn phải giữ ý tứ như trước kia nữa. Cho đến lần thứ hai gặp Tràng, thị càng tỏ vẻ là một người đàn bà kém duyên. Thị xưng xỉa với Tràng và cong cớn nói: "Điêu! Người thế mà điêu", đến khi được ăn thì lại ăn hẳn "một chặp bốn cái bánh đúc", "lấy đũa quệt ngang miệng" sau khi ăn mà không hề có một chút ý tứ nào. Lẽ thường tình, với một người con gái vừa không có ngoại hình, tính tình lại chẳng mấy duyên dáng thì bình thường sẽ khó có chàng trai nào để ý tới, huống hồ là muốn lấy làm vợ. Nhưng đặt trong hoàn cảnh nạn đói năm 1945, khi con người ta túng quẫn đến quên mình thì chỉ có thứ tình người của Tràng mới có thể cưu mang thị, đưa thị về làm vợ. Việc cho đi tình thương ấy là một việc đúng đắn bởi từ khi theo Tràng về, thị đã có những thay đổi theo chiều hướng tích cực. Ta thấy được hình ảnh thị bẽn lẽn, e thẹn, có lẽ thị ý thức được việc mình đang về nhà chồng nên đã có những suy nghĩ sâu sắc hơn. Hành động của thị không phải là nhất thời, vì miếng ăn mà thị đã thay đổi cả trong hành động của mình khi về nhà chồng. Thị cùng với bà cụ Tứ đã thức dậy thật sớm để lo ''dọn dẹp nhà cửa và quét tước sân vườn sạch sẽ", trước mặt mẹ chồng thị cũng khép nép chứ không tỏ cái vẻ đanh đá như thường ngày. Rõ ràng, thị đã không còn là một cô ả đỏng đánh ngồi vêu ra với đám con gái như ngày trước nữa, thị thật sự đã trở thành một người vợ biết chăm lo cho gia đình. Chính tình yêu thương, sự rộng lượng của Tràng dành cho thị đã khiến thị thay đổi, ta thấy được khao khát có được hạnh phúc rất mãnh liệt từ người đàn bà ấy.
Tràng, thị và bà cụ Tứ là những con người sống trong cái đói, trong sự túng quẫn để tìm cái ăn nhưng ở họ, ta thấy được thứ tình người thật đáng trân trọng. Chỉ sau hai lần gặp Tràng, thị đã có thể theo Tràng về nhà nhờ tình thương của Tràng dành cho thị. Còn bà cụ Tứ, trong hoàn cảnh hai mẹ con nuôi chính bản thân còn chưa xong mà lại còn đèo bòng thêm thị nữa thì thật là khó có thể cưu mang nổi. Nhưng không, bà cụ Tứ thấy thương cho thị, vẫn để thị ở lại làm vợ Tràng và cùng nhau vượt qua khó khăn. Khao khát được sống hạnh phúc, được có một gia đình đã khiến cho thị và Tràng có những thay đổi thật sự trong suy nghĩ và hành động của mình. Cảnh cuối truyện khi ba mẹ con cùng ăn nồi cháo cám, hí hởi gọi đó là "chè khoán" cho thấy tâm trạng vui vẻ, tinh thần lạc quan trong hoàn cảnh bi quan của con người. Họ sống đùm bọc, yêu thương lẫn nhau, đây chính là giá trị nhân đạo mà tác giả đã gửi gắm vào tác phẩm. Qua đó, ta thấy truyện không chỉ có giá trị hiện thực mà còn có giá trị nhân đạo sâu sắc.
Kim Lân - nhà văn của người nông dân Việt Nam đã thành công trong việc khắc họa lại hiện thực xã hội đau đớn và tang thương trong nạn đói khiến 2 triệu người chết năm 1945 ở đất nước ta. Đồng thời, ông cũng đã khắc họa hình ảnh hai nhân vật Tràng và thị một cách rõ nét, là hiện thân cho những con người trong giai đoạn ấy, cho thấy khao khát được sống hạnh phúc và ý nghĩa của tình yêu thương con người trong hoàn cảnh khó khăn. Kim Lân quả thực là một nhà văn tài ba đã theo chân lịch sử để mang đến những tác phẩm hay nhất và có giá trị to lớn đối với nền văn học nước nhà. Lật lại những trang viết của ông, ta có thể thấy được toàn cảnh cuộc sống của những thế hệ đi trước - những người đã trải qua biết bao gian lao, thử thách mà qua đó ta thầm biết ơn hiện tại vì đã cho ta một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và đầy đủ tiện nghi.
Dựa trên bài văn mẫu tham khảo phân tích Vợ nhặt được viết bởi CUNGHOCVUI.COM, chúng mình hy vọng các bạn sẽ có một tài liệu hữu ích phục vụ trong việc học tập môn Ngữ văn lớp 12. Chúc các bạn học tốt!
Copyright © 2021 HOCTAP247